Lý luận - phê bình

Thi nhân xứ Đoài trong không gian văn hóa kinh kỳ

Nhà LLPB Bùi Việt Thắng 13/08/2023 06:28

Xứ Đoài thuộc không gian địa lý Sơn Tây, là vùng trọng yếu của Thăng Long xưa - Hà Nội nay và cũng là vùng “địa linh nhân kiệt” với nhiều danh nhân kỳ hùng, mang nhiều dấu ấn văn hóa đặc sắc, có truyền thống lâu đời.

cong-lang-co-duong-lam.jpg
Cổng làng cổ Đường Lâm

Địa - Văn hóa, con đường tiếp cận thơ xứ Đoài

Phương pháp nghiên cứu “Địa-Văn hóa” (Géo-Culture) cho phép chúng ta tiếp cận những không gian văn hóa vốn đa dạng và phong phú trên mọi miền đất nước. Từ đó có thể “chạm” đến văn hóa xứ Kinh kỳ (Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội), xứ Kinh Bắc (Bắc Giang - Bắc Ninh - Lạng Sơn - Hưng Yên), xứ Đất Tổ (Phú Thọ), xứ Đoài (Sơn Tây trước đây, Hà Tây sau này), xứ Nghệ (Nghệ An - Hà Tĩnh), xứ Huế (Thừa Thiên - Huế), xứ Nẫu (Phú Yên - Bình Định)... Trong phạm trù văn hóa tuyệt nhiên không có sự phân biệt đẳng cấp cao thấp, chỉ có duy nhất bản sắc (sự khác nhau) tạo nên sự đa dạng trong tình thế dung chấp.

nha-tho-tan-da.jpg
nha-tho-quang-dung.jpg
nha-tho-xuan-quynh.jpg

Xứ Đoài thuộc không gian địa lý Sơn Tây, là vùng trọng yếu của Thăng Long xưa - Hà Nội nay và cũng là vùng “địa linh nhân kiệt” với nhiều danh nhân kỳ hùng, mang nhiều dấu ấn văn hóa đặc sắc, có truyền thống lâu đời. Tản Đà (1889-1939, quê Bất Bạt, Sơn Tây) là thi nhân tiêu biểu nhất xứ Đoài thời hiện đại. Trong sách “Thi nhân Việt Nam”, các tác giả Hoài Thanh - Hoài Chân đã biểu dương một đội ngũ tuy không hùng hậu về số lượng (chỉ có 45 gương mặt thơ tiêu biểu nhất), nhưng được tuyển chọn kỹ lưỡng trở thành tinh tuyển của phong trào Thơ mới Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Ngay đầu sách là vị trí vô đối của Tản Đà. Nguyễn Khắc Hiếu làm thơ lấy bút danh Tản Đà là ngụ ý mình sinh ra ở nơi linh thiêng trời đất (núi Tản, sông Đà). Các tác giả “Thi nhân Việt Nam” đã suy tôn Tản Đà ở ngôi vị số một bởi: “Có tiên sinh, người ta sẽ thấy rõ chúng tôi không phải là những quái thai của thời đại, những đứa con thất cước không có liên lạc gì với quá khứ của giống nòi”. Rõ ràng Tản Đà đã có công lao lớn khi thổi vào thơ ca thời hiện đại một luồng gió mới mẻ của tâm hồn Việt Nam, phá vỡ những lề luật, khuôn sáo cũ qua các siêu phẩm thơ của mình (Lên sáu, Lên tám, Còn chơi, Tản Đà tùng văn, Thề non nước...). Nhận định của Vũ Ngọc Phan là ngắn gọn, đầy đủ nhất: “Tản Đà chỉ là một nhà thơ, văn vần của ông rực rỡ thế nào, văn xuôi của ông lu mờ thế ấy. Thơ của ông giản dị, trong sáng, lại diễn tả tâm hồn Việt Nam đủ mọi vẻ, mọi màu, nên thơ ông quyết nhiên sẽ là thơ bất hủ, và có lẽ trên thi đàn gần đây, ông đứng vào bậc nhất” (Nhà văn hiện đại).

Nhiều thế hệ người Việt Nam bất luận lý do nào đều có thể ngâm nga: “Nước non nặng một lời thề/ Nước đi đi mãi không về cùng non/ Nhớ nhời nguyện nước thề non/ Nước đi chưa lại non còn đứng không/ Non cao những ngóng cùng trông/ Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày. (...)/ Nước kia dù hãy còn đi/ Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui/ Nghìn năm giao ước kết đôi/ Non non nước nước không nguôi nhời thề” (Thề non nước). Yêu nước có nhiều cách biểu hiện, như thơ Tản Đà là một cách kín đáo, tế nhị, bền lâu.

Thi nhân xứ Đoài qua đôi mắt người Sơn Tây

Có thể coi Quang Dũng (1921-1988), quê Đan Phượng, Hà Tây là một “truyền nhân” của bậc tiền bối Tản Đà - ngôi sao sáng nhất của thi nhân xứ Đoài. Quang Dũng tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ kháng chiến chống Pháp. Những tác phẩm thơ của ông (Bài thơ sông Hồng, Mây đầu ô) tuy ít về số lượng nhưng hợp với quy luật khắt khe của sáng tạo nghệ thuật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Nói đến thơ ca kháng chiến chống Pháp người ta thường nhắc ngay đến “Tây Tiến” của Quang Dũng, nó được ví như một “tượng đài bằng thơ về người lính cách mạng” với tâm tráng hùng chí “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Bài thơ được viết bằng trải nghiệm sống, trải nghiệm văn hóa ở mức cao sâu nhất của một chân tài thơ trên con đường viễn xứ. Nhưng ở một phương diện khác, “Đôi mắt người Sơn Tây” mới phát lộ cái thần thái nhà thơ, mang khí vị của đất và người nơi sinh thành, nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ tương lai. Những câu thơ như thể là lời tỉ tê tâm sự của những người cùng xứ sở: “Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm/ Em có bao giờ em nhớ thương?/ Mẹ tôi em có gặp đâu không/ Những xác già nua ngập cánh đồng/ Tôi cũng có một thằng em nhỏ/ Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông/ Từ độ thu về hoang bóng giặc/ Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn/ Em đã bao ngày lệ chứa chan?/ Đôi mắt người Sơn Tây/ U ẩn chiều lưu lạc/ Buồn viễn xứ khôn khuây…”. Một thi phẩm xuất sắc không cần lời bình vì tự nó đã làm bật lên “hồn đất, hồn người”.

Thi nhân trên Hà Tây quê lụa

Thủ đô của bất kỳ quốc gia nào cũng là nơi hội tụ, kết tinh, lan tỏa các giá trị khoa học, văn hóa (trong đó có nghệ thuật ngôn từ/ thi ca). Ngược dòng thời gian, vào thời kỳ hiện đại hóa văn học ráo riết và thành công (1930-1945), sẽ thấy các tao nhân mặc khách đa số thiên di từ “vùng sâu vùng xa” về Thủ đô (Xuân Diệu, Huy Cận và nhiều thi nhân khác trong Phong trào Thơ mới) lập nghiệp và thi thố tài năng nghệ thuật. Từ 2018, Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội, Thủ đô Việt Nam được xếp vào “top 10” các thủ đô có diện tích rộng nhất thế giới (với diện tích hơn 3000 cây số vuông, có cả người dân tộc thiểu số). Đất lành chim đậu, đây là cơ hội để các anh tài trong các lĩnh vực, trong đó có sáng tác văn học, có dịp “một lần tới Thủ đô” (nhan đề một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Trần Đăng, viết 1946).

Những tên tuổi mới trên thi đàn Việt Nam hiện đại thuộc không gian “Hà Tây quê lụa” (nhạc phẩm của nhạc sĩ Nhật Lai) góp vào sự giàu có của thơ ca dân tộc thời đại cách mạng và chiến tranh không thể không kể đến Xuân Quỳnh (1942-1988, quê Hoài Đức, Hà Tây) và Bằng Việt (sinh 1941, quê Thạch Thất, Hà Tây). Đây là hai gương mặt thơ nổi trội trong “dàn” thơ thế hệ chống Mỹ (Thu Bồn, Phạm Ngọc Cảnh, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Vương Trọng, Anh Ngọc, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Trần Cương, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Nhuận Cầm...). Thơ Xuân Quỳnh đặc sắc bởi “nữ tính”, “mẫu tính”, “nữ quyền” - bao dung, vị tha, dung dị, nồng nàn - nên phổ đọc rộng. Thơ Xuân Quỳnh luôn trẻ trung vì chất hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm, vừa sôi nổi mãnh liệt như “Sóng”.

cong-lang-mong-phu-duong-lam.jpg
Cổng làng Mông Phụ, Đường Lâm

Bên cạnh đó, Bằng Việt mang đến thơ một tiếng nói nghệ thuật khác - một phong cách, có thể ví “đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ, đốt cháy trí tuệ đến thành trái tim”. Bằng Việt để lại dấu ấn với sự tự tại, sắc sảo, mẫn tiệp, thơ anh nhiều biểu tượng (bếp lửa, trái tim, mẹ, em). Nhiều thế hệ sinh viên ngành văn yêu thích bài thơ “Nghĩ lại về Pauxtốpxki” với những thổn thức của người qua thời của tuổi trẻ vô tư: “Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu/ Cuộc đời không phải thế đâu. [...]/ Ta đã lớn và Pauxtốpxki đã chết”. Đó là một trong những bài thơ đặc trưng cho phong cách thơ Bằng Việt - trí tuệ và cảm xúc chung vai dẫn dắt câu chữ (tiêu biểu như Tình yêu và báo động, Mẹ, Em và tôi, Khoảng cách giữa lời, Em đừng ghen với quá khứ...).

Vĩ thanh

Trong số hơn 700 hội viên Hội Nhà văn Hà Nội hiện nay, hội viên thơ đến từ xứ Đoài không ít, đó là đội ngũ được tập hợp tất yếu từ không gian văn hóa tương đồng hòa nhập vào Kinh kỳ. Tên tuổi và thành tựu thi ca của họ là một kho của cải tinh thần quý giá. Tuy nhiên, trong một bài báo nhỏ tác giả không thể điểm danh, bình luận đầy đủ các gương mặt anh tài trong lĩnh vực thi ca thuộc nhiều thế hệ. Lấy điểm nói diện, lấy ít nói nhiều cũng là cách qua một giọt sương soi chiếu cả ánh sáng mặt trời rực rỡ, qua một giọt nước biển tô đậm vị mặn mòi của đại dương bao la./.

Bài liên quan
  • Vinh danh nữ sĩ bằng ngôn từ tiểu thuyết
    Sống ở khoảng cuối thế kỷ 18, Hồ Xuân Hương là một nhân vật nổi tiếng và còn gây nhiều tranh cãi. Đã có rất nhiều tài liệu, tác phẩm văn chương, âm nhạc, hội họa xoay quanh cuộc đời, tác phẩm của bà… “Hồ Xuân Hương tiếng vọng” của nhà thơ, nhà báo Nghiêm Thị Hằng là một trong số đó. Cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về nữ sĩ đã ra mắt bạn đọc năm 2022.
(0) Bình luận
  • Giao hưởng Điện Biên - thành tựu mới của nhà thơ Hữu Thỉnh
    Chiến thắng Điện Biên là chiến thắng vĩ đại “lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” (Tố Hữu), làm rạng danh nước Việt trên thế giới “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Ngày 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trên nóc hầm tướng De Castriest, ngày 12/5 Bác Hồ đã có bài thơ dài đăng trên báo Nhân Dân: “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ”. Rồi sau đó, Tố Hữu có bài thơ nổi tiếng “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Bên cạnh những tác phẩm thơ, Điện Biên còn được nhắc đến trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, các cuốn sách hồi ký, biên khảo…
  • Thiên anh hùng ca Điện Biên Phủ: Nguồn cảm hứng sáng tạo lớn của văn học nghệ thuật
    Chiến thắng Điện Biên Phủ “là một mốc son chói lọi bằng vàng của lịch sử”. Góp vào chiến công vang dội ấy không thể không nhắc đến các văn nghệ sĩ - những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Nhìn lại thắng lợi vẻ vang của cuộc chiến tranh toàn dân này từ điểm nhìn 70 năm sau chiến thắng, có thể thấy rõ dấu ấn của văn học nghệ thuật viết về đề tài Điện Biên Phủ trải đều trên khắp các loại hình văn học nghệ thuật, từ văn chương cho đến âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu, kiến trúc, điện ảnh…
  • Thơ viết về chiến thắng Điện Biên Phủ: Nối dài âm hưởng bản hợp xướng anh hùng ca
    Bảy mươi năm qua, thơ về sự kiện Đại thắng Điện Biên Phủ có nhiều bài, được công bố trên báo, tạp chí, sách liên tiếp vào các năm 1954, 1955, 1956… sau đó được in chụm vào những dịp kỷ niệm năm chẵn: 1964, 1974, 1984, 1994, 2004, 2014 và năm nay bảy mươi năm - 2024.
  • Tiếp nối mạch nguồn, tạo sự bứt phá
    Giá trị VHNT Hà Nội - Huế - Thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận nền tảng quan trọng, mang ý nghĩa văn hóa, xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét trên các lĩnh lực: văn học, văn nghệ dân gian, âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, múa. Nhìn lại chặng đường gần 50 năm kể từ ngày thống nhất đất nước của VHNT 3 thành phố, có thể thấy rõ những thành tựu và cả những mặt hạn chế tồn tại cần phải thay đổi để tiếp nối mạch nguồn, tạo sự bứt phá.
  • Nhà văn Đức Anh: “Viết văn hay viết phê bình đều cần phải có đầy năng lượng…”
    Nhà văn Đức Anh Kostroma (sinh năm 1993, tại Nga) từng “chào sân” với các tác phẩm ấn tượng như “Thiên thần mù sương”, “Tường lửa”, “Đảo bạo bệnh”. Hành trình sáng tạo đầy bản lĩnh của anh đã nhận được sự đánh giá cao của giới chuyên môn và ghi được dấu ấn mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. Giải thưởng “Tác giả trẻ” năm 2023 của Hội Nhà văn Việt Nam đã gọi tên anh cùng với tiểu thuyết “Nhân sinh kép: Sống hai cuộc đời”, bởi đã dám dấn thân thể hiện thế giới quan của “người đi khai phá nét kiêu sa” trong cuộc sống.
  • Người lính và mùa xuân đất nước muôn đời
    Nguyễn Khoa Điềm là tác giả lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại. Ông góp vào gia tài thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó có bài “Đồng dao mùa xuân”. “Đồng dao mùa xuân” được sáng tác vào tháng 12/1994, in trong sách “Thơ Nguyễn Khoa Điềm - Tuyển tập 40 năm do tác giả chọn” (Nxb Văn học, Hà Nội, 2011). Tác phẩm gồm 9 khổ với 33 dòng thơ, theo thể 4 chữ với phong cách đồng dao. Bài thơ được xem là một trong những tác phẩm thành công trong việc khắc họa hình tượng người lính.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Thi nhân xứ Đoài trong không gian văn hóa kinh kỳ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO