Lý luận - phê bình

Mặn nồng tình nghĩa áo tơi

Lời bình của Thanh Khê 01/08/2023 08:30

Mỗi khi nhắc nhớ tới mảnh đất miền Trung sâu nặng ân tình, bao giờ trong tâm trí người xa quê cũng thấp thoáng hình ảnh áo tơi dầm mưa dãi nắng trên đồng. Dần dà, đó không đơn thuần chỉ là chiếc áo che nắng che mưa mà chất chứa cả đời sống tinh thần, niềm thương nỗi nhớ, sự khắc khoải day dứt khôn nguôi. Cũng bởi lẽ đó, áo tơi trở thành hình tượng xuyên suốt trong các tác phẩm thơ ca, nhạc, họa sáng tác về miền Trung. 

127d2135238t5590l4-anh-cover.jpg

Nhà thơ Nguyễn Đăng Độ - người cựu chiến binh sinh ra trên mảnh đất Thạch Hà, Hà Tĩnh cũng không ngoại lệ. Bài thơ “Áo tơi” của anh chạm vào lòng người đọc bằng niềm xúc động trước vẻ đẹp chân chất, mộc mạc mà chan chứa nghĩa tình: 

Áo tơi bao đời chằm lá cọ

Bốn mùa xuân, hạ với thu, đông

Áo tơi quàng lưng cha, lưng mẹ

Chắn gió heo may, che nắng trưa hè.

Áo tơi, lửng gót chân sen

Gái quê má hồng chúm chím cười

Áo tơi, cho mình gặp ta

Nên duyên, nên tình.

Áo tơi, từ cây cỏ đất trời

Trưa đồng thấm giọt mồ hôi mặn mòi

Rách lành tấm áo bao đời

Thủy chung áo lá, ngọt bùi đắng cay.

Áo tơi, vắt vẻo lưng trâu

Tiếng sáo vi vu, nhớ ngày ấu thơ

Nhớ quê càng nhớ áo tơi

Dáng mẹ đứng đợi, áo tơi trên đồng.

“Áo tơi bao đời chằm lá cọ/ Bốn mùa xuân, hạ với thu, đông/ Áo tơi quàng lưng cha, lưng mẹ/ Chắn gió heo may, che nắng trưa hè”, tác giả mở đầu bài thơ với những hình ảnh gần gũi mà bao quát nhất về chiếc áo mang bóng dáng quê hương với sức bền bỉ lạ thường. Từ những tàu lá cọ, muốn nên hình nên dáng thì phải mang “chằm”, mà “chằm” là cả một công đoạn dài từ: phơi lá qua nắng qua sương, vót thân cây mây thành sợi rồi mới có thể kết nối từng lớp lá. Dường như thân phận áo tơi đã mang tinh thần lam lũ, hi sinh ngay từ công đoạn ban đầu ấy. Làm sao ta có thể tìm thấy một loại áo nào khác mà ngay từ khi còn là nguyên liệu đã phải đẫm mình trong nắng trong sương. Một điều đặc biệt nữa, đó là người miền Trung bốn mùa đều gắn bó với loại áo này. Từ những ngày mùa xuân lâm thâm mưa phùn, cho tới mùa hè nắng như chảo lửa, mùa thu mưa giông bất chợt hay đông rét căm căm đến thắt dạ thắt lòng. Dáng hình áo tới gắn với nỗi nhọc nhằn cha mẹ. Khi những đứa con còn thơ dại, chưa thể chia sẻ gian truân, thì áo tơi che chắn, bảo vệ con người, để “chân cứng đá mềm”, để tiếp tục cần cù bươn trải tháng năm. Lối khái quát dung dị nhưng đã gọi ra được giá trị, tình cảm cốt lõi nhất của áo tơi với đời sống người nông dân miền Trung lam lũ.

Tinh tế, uyển chuyển sang một nhịp đời sống tinh thần khác, tác giả phác họa hình ảnh những cô thôn nữ tảo tần mà duyên dáng: “Áo tơi, lửng gót chân sen/ Gái quê má hồng chúm chím cười/ Áo tơi, cho mình gặp ta/ Nên duyên, nên tình”. Những ý thơ đẹp như câu hát. Phải đủ quan sát, trải nghiệm mới có thể miêu tả trạng thái “lửng gót chân sen” của các nàng thôn nữ. Là bởi độ dài của áo tơi, độ cúi của lưng, của khuôn dáng trên đồng ruộng sẽ tạo nên hình ảnh rất riêng biệt này. Ta gặp ở đó vẻ đẹp của tuổi trẻ, của tinh thần lao động hăng say và chất chứa cả nét duyên ngầm thu hút của “má hồng”, nụ cười “chúm chím”. Từ bấy nên duyên mình duyên ta. Không gì cao đẹp, rung động hơn mối duyên con người được hòa quyện trong cảnh cơ hàn, lam lũ như ca từ trong bài hát quen thuộc của nhạc sĩ An Thuyên “Ca dao em và tôi”: “Cùng em khoác chiếc áo tơi ra đồng/ Dù trời đổ nắng chang chang vẫn quàng”.

Từng nhuần nhuyễn với nhịp thơ lục bát hay thất ngôn, nhưng ở tác phẩm lần này, dường như nhà thơ Nguyễn Đăng Độ có dụng ý pha trộn các thanh điệu ấy để nhịp thơ vang lên khi tha thiết, khi cồn cào, khi trúc trắc, khi tạo nên một nốt lặng trầm ngâm. Những điều đó khiến người đọc cũng liên tưởng tới nhịp bước, sự chuyển động đầy sinh động của những người nông dân khi khoác lên mình chiếc áo dãi dầu mưa nắng: “Áo tơi, từ cây cỏ đất trời/ Trưa đồng thấm giọt mồ hôi mặn mòi/ Rách lành tấm áo bao đời/ Thủy chung áo lá, ngọt bùi đắng cay”. Chỉ qua vài câu thơ, thân phận áo tơi trở nên rõ nét, như ta có thể chạm vào, có thể nghe mơ hồ thoảng giọt mồ hôi, và cảm nhận sâu hơn ở đó sự tiếp nối từ đời này qua đời khác đức tính chịu thương chịu khó, san sẻ ngọt bùi đắng cay và thủy chung son sắt trọn đời.

Đâu đó thấp thoáng trong “giai điệu” về áo tơi, lòng người trở nên nhẹ nhõm hơn khi bắt gặp hình ảnh tuổi thơ mục đồng, chăn trâu thổi sáo. Để rồi bất chợt nhận ra, áo tơi đã đi vào đời sống con người từ thuở ấy: “Áo tơi, vắt vẻo lưng trâu/ Tiếng sáo vi vu, nhớ ngày ấu thơ/ Nhớ quê càng nhớ áo tơi/ Dáng mẹ đứng đợi, áo tơi trên đồng”. Cả khung trời ắp đầy kỷ niệm đầy xôn xao, lay động trong khổ thơ cuối. Lòng chùng lại, lặng đi trước ký ức tuổi thơ dẫu nhọc nhằn nhưng cũng đầy mơ mộng. Và trong nỗi lòng khắc khoải của những người con xa quê, ám ảnh, yêu thương hơn cả là dáng mẹ đứng đợi, dáng áo tơi dầu dãi trên đồng. Từ trong hình bóng ấy, bao nỗi rưng rưng, xa xót ùa về. Đôi khi, vô tình lướt qua một miền đất nào đó, qua cánh đồng xa lạ nào đó, chỉ cần thấp thoáng dáng người lom khom, manh áo tơi nâu như màu đất là lòng người như đã tự nhen lên một ngọn lửa yêu thương, khắc khoải.

Áo tơi ấp ủ trọn vẹn nghĩa tình mặn nồng, thơm thảo của người miền Trung cùng với những nồi nước chè xanh nấu trên đồng, cả làng cả xóm uống chung để gặt giúp nhau sào ruộng, sẻ chia cơm nắm muối vừng. Đã có nhiều thắc mắc rằng vì sao khắp dải đất hình chữ S của Tổ quốc lại chỉ có người dân miền Trung mặc áo tơi ra đồng. Câu hỏi ấy được trả lời bằng nắng gió, bão bùng đầy khắc nghiệt mà hiếm có một miền đất nào phải hứng chịu nhiều đến thế. Nhà thơ Hoàng Trần Cương đã từng khắc khoải: “Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa/ Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam”; “Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt/ Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ/ Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ/ Không ai gieo mọc trắng mặt người”.

Trong rất nhiều đề tài, nhà thơ Nguyễn Đăng Độ dành tình cảm đặc biệt cho quê hương với hình bóng cha mẹ, bà con xóm giềng, ký ức tuổi thơ. Từ các tập thơ đã xuất bản như: “Tình quê” (Nxb Phụ nữ, 2022), “Hương xa” (Nxb Hội Nhà văn, 2022) cho tới các tập bản thảo sắp in thành sách, đề tài này trở thành cảm hứng mang tính nguồn cội, nền tảng và luôn chinh phục được bạn đọc bởi sự chân tình, mộc mạc. Viết giản dị về những điều giản dị là cách anh thường triển khai trong sáng tác của mình. Điều đó dễ mà không dễ. Dễ bởi ký ức, dữ liệu luôn dồi dào, ăm ắp. Nhưng không dễ bởi trong đời sống bộn bề này, có bao điều sôi nổi, luôn cuốn con người và có thể khiến ta thích lập ngôn, hoa mỹ… cho tới khoảnh khắc nào đó hoàn toàn mất khả năng nói thật, viết thật.

Giữ gìn, bảo vệ trọn vẹn một thế giới tinh thần và cống hiến, sáng tạo vì điều đó cũng là một giá trị quan trọng làm nên bản sắc, tâm hồn mỗi con người nói riêng và cuộc sống nói chung. Nhìn nhận ở khía cạnh này, chúng ta thấy nhà thơ Nguyễn Đăng Độ thật “giàu có” bởi anh nâng niu, tích lũy những điều nhỏ nhất, đôi khi cả những câu chuyện, tình tiết dễ bề khuất lấp, để từ đó chưng cất thành thơ. Không ngạc nhiên khi biết rằng, cứ mỗi bài thơ ra đời là nhà thơ lại nhận được lời đề nghị từ các nhạc sĩ để phổ nhạc, các nghệ sĩ khắp mọi miền cất lên tiếng hát. Bài thơ “Áo tơi” cũng đã được nhạc sĩ Nguyễn Hoàng Anh phổ nhạc và nhiều nghệ sĩ thể hiện thành công trong các không gian văn hóa miền Trung, đặc biệt trong đó có Hà Quỳnh Như - Quán quân The Voice 2018. Đó là trái ngọt từ nghĩa tình đến nghĩa tình, từ một câu chuyện riêng đến câu chuyện chung khiến mỗi tâm hồn thêm rung động và trân quý cuộc sống./.

Bài liên quan
  • Nhà báo Vương Tâm trên những nẻo đường xa
    Nhà báo kiêm nhà thơ Vương Tâm, nguyên Trưởng ban báo Hànộimới Cuối tuần, là người con của xứ Đoài mây trắng. Ông được sinh ra trong hơi thở của vùng đất đá ong nồng ấm, và lớn lên cùng với tiếng đàn bầu của ông nội, tại làng Hương Ngải, Thạch Thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây cũ, nay thuộc Hà Nội. Bốn mươi năm làm báo và theo đuổi sự nghiệp văn chương của ông đã để lại những dấu ấn thật khó quên.
(0) Bình luận
  • Giao hưởng Điện Biên - thành tựu mới của nhà thơ Hữu Thỉnh
    Chiến thắng Điện Biên là chiến thắng vĩ đại “lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” (Tố Hữu), làm rạng danh nước Việt trên thế giới “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Ngày 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trên nóc hầm tướng De Castriest, ngày 12/5 Bác Hồ đã có bài thơ dài đăng trên báo Nhân Dân: “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ”. Rồi sau đó, Tố Hữu có bài thơ nổi tiếng “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Bên cạnh những tác phẩm thơ, Điện Biên còn được nhắc đến trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, các cuốn sách hồi ký, biên khảo…
  • Thiên anh hùng ca Điện Biên Phủ: Nguồn cảm hứng sáng tạo lớn của văn học nghệ thuật
    Chiến thắng Điện Biên Phủ “là một mốc son chói lọi bằng vàng của lịch sử”. Góp vào chiến công vang dội ấy không thể không nhắc đến các văn nghệ sĩ - những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Nhìn lại thắng lợi vẻ vang của cuộc chiến tranh toàn dân này từ điểm nhìn 70 năm sau chiến thắng, có thể thấy rõ dấu ấn của văn học nghệ thuật viết về đề tài Điện Biên Phủ trải đều trên khắp các loại hình văn học nghệ thuật, từ văn chương cho đến âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu, kiến trúc, điện ảnh…
  • Thơ viết về chiến thắng Điện Biên Phủ: Nối dài âm hưởng bản hợp xướng anh hùng ca
    Bảy mươi năm qua, thơ về sự kiện Đại thắng Điện Biên Phủ có nhiều bài, được công bố trên báo, tạp chí, sách liên tiếp vào các năm 1954, 1955, 1956… sau đó được in chụm vào những dịp kỷ niệm năm chẵn: 1964, 1974, 1984, 1994, 2004, 2014 và năm nay bảy mươi năm - 2024.
  • Tiếp nối mạch nguồn, tạo sự bứt phá
    Giá trị VHNT Hà Nội - Huế - Thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận nền tảng quan trọng, mang ý nghĩa văn hóa, xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét trên các lĩnh lực: văn học, văn nghệ dân gian, âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, múa. Nhìn lại chặng đường gần 50 năm kể từ ngày thống nhất đất nước của VHNT 3 thành phố, có thể thấy rõ những thành tựu và cả những mặt hạn chế tồn tại cần phải thay đổi để tiếp nối mạch nguồn, tạo sự bứt phá.
  • Nhà văn Đức Anh: “Viết văn hay viết phê bình đều cần phải có đầy năng lượng…”
    Nhà văn Đức Anh Kostroma (sinh năm 1993, tại Nga) từng “chào sân” với các tác phẩm ấn tượng như “Thiên thần mù sương”, “Tường lửa”, “Đảo bạo bệnh”. Hành trình sáng tạo đầy bản lĩnh của anh đã nhận được sự đánh giá cao của giới chuyên môn và ghi được dấu ấn mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. Giải thưởng “Tác giả trẻ” năm 2023 của Hội Nhà văn Việt Nam đã gọi tên anh cùng với tiểu thuyết “Nhân sinh kép: Sống hai cuộc đời”, bởi đã dám dấn thân thể hiện thế giới quan của “người đi khai phá nét kiêu sa” trong cuộc sống.
  • Người lính và mùa xuân đất nước muôn đời
    Nguyễn Khoa Điềm là tác giả lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại. Ông góp vào gia tài thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó có bài “Đồng dao mùa xuân”. “Đồng dao mùa xuân” được sáng tác vào tháng 12/1994, in trong sách “Thơ Nguyễn Khoa Điềm - Tuyển tập 40 năm do tác giả chọn” (Nxb Văn học, Hà Nội, 2011). Tác phẩm gồm 9 khổ với 33 dòng thơ, theo thể 4 chữ với phong cách đồng dao. Bài thơ được xem là một trong những tác phẩm thành công trong việc khắc họa hình tượng người lính.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Mặn nồng tình nghĩa áo tơi
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO