Lý luận - phê bình

Như những vòng sóng âm lan tỏa

Lời bình của Hồ Minh Tâm 15:00 04/08/2023

Đọc bài thơ “Dần sáng” của Nguyễn Thị Kim Nhung, ta như hóa thành tia nắng gãy, vắt dọc dây phơi, để khuếch tán sương mai, để hong khô bao ngổn ngang hoài niệm. Ta, ngọn gió lẻ, chẳng ai xô mà rung lắc cùng sợi thời gian.

Tiếng gọi loang đồng ruộng

làm giật mình bóng đêm

người đi soi trở về

men theo những tờ mờ sót lại

Nhà ai thổi cơm sớm

gạo đổ vào nồi để lại tiếng vang

nuôi nhau qua ngày giáp hạt

Mẹ dặn đừng đáp lại

văng vẳng ai gọi mình

triền mê ta thầm vụng

rạc giấc dài chưa tỏ nguồn cơn

Ta đã khác mà giọng người còn biếc

ban mai rạn những cơ hồ

Người vợ mặc lại áo

hai vạt khép bóng đêm

đôi vầng sáng mặc nhiên thầm tỏa

Sung một đời buông quả

không chạm nổi đáy ao.

(Nguyễn Thị Kim Nhung, tác phẩm đoạt giải Ba Cuộc thi thơ 2019 – 2020 trên báo Văn Nghệ).

Nếu bay nhanh hơn ánh sáng, chúng ta sẽ về được hôm qua, dường như Einstein từng nói như vậy. Vâng, nếu ai đó chế được một phương tiện để đạt được vận tốc 300km/s... tôi tin, dù đắt mấy cũng sẽ bán rất chạy. Tiếc thay, đến thời điểm này chưa ai làm được cái ước ao trẻ lại ấy. Chưa ai có vé về tuổi thơ để bán lại cho ai. Mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, mùa hoài niệm... cứ thứ tự xếp hàng, đều bước, đi. Sung cứ chen chúc xanh, chen chúc vàng, thúc nhau rụng mà cả đời không chạm nổi đáy sông. Thời gian dài hơn sông, rộng hơn sông, sâu hơn sông... thời gian như một sợi dây phơi chùng, võng, không đầu không cuối, phận người như giọt nước trong, đọng nơi chùng nhất rồi bay đi... Vì thế chăng, mà bất kỳ ai từ vùng miền nào, thời nào thì quá khứ dù màu gì cũng đều lấp lánh khi ngoái về.

Bài thơ gồm có 6 khổ với kết cấu tự do. Và “Dần sáng” được sáng lên bởi một trăm lẻ một chữ tất cả (kể cả tiêu đề bài thơ).

Thơ hay chẳng phải do nhiều hay ít chữ, mà với tôi là thơ gợi. Và, đọc thơ, ngắm thơ... thì không nhất thiết phải đếm chữ nhưng tôi đã làm vậy, tôi làm vậy như tôi đang cuộn tròn mình lại để lăn về... tôi làm vậy như tôi đang hóa lỏng mọi ngày tháng xù xì quanh mình thành một giọt trong veo. Tôi làm vậy, vì lắm khi tôi nghĩ thơ hay cũng là một tín ngưỡng và đọc được bài thơ hay chẳng khác gì đang lần tràng hạt.

Tôi làm vậy bởi khi nhâm nhi từng khổ của “Dần sáng”, tôi chợt nhớ đến Matsuo Basho - vị thiền sư, cũng là thi sĩ lỗi lạc của Nhật Bản - người đã sáng tạo ra thể thơ Haiku, thể thơ thường chỉ mười bảy âm tiết, mười bảy tinh thể cố kết thành một chỉnh thể. Chỉnh thể ấy hấp thụ tinh khí đất trời cỏ cây nắng gió mà phát sáng.

“Dần sáng” của Nguyễn Thị Kim Nhung là một chỉnh thể. Nhưng, nếu tách riêng từng khổ, thì mỗi khổ ấy cũng không khác gì một bài thơ trọn vẹn. Đây nhé: “Dần sáng/ Tiếng gọi loang đồng ruộng/ làm giật mình bóng đêm/ người đi soi trở về/ men theo những tờ mờ sót lại”.

Ai từng trằn trọc vì đói, thèm, vì thiếu thốn tứ bề ở làng quê, khi đọc khổ thơ trên lại không thấy mình đang ngóng cha từ đồng ruộng trở về. Không như “ngóng mẹ về chợ”, ngóng cha ở đây là ngóng con cua, con cá, ngóng cái ăn từ may rủi... nó khắc khoải hơn nhiều. Rồi chẳng biết thương cha, thương mình, hay thương quê nghèo mà bóng cha loang ra trong mắt ướt. Thương cha, thương cả đêm lặn lội kiếm cái ăn cái học cho con... rồi cạn đêm lầm lụi men theo những “tờ mờ sót lại” mà về. Dạ, cha ơi cứ men theo những tờ mờ sót lại mà về!

Gọi. Chắc gì đã là vợ gọi chồng, cha gọi con, người gọi người... chạng vạng, tờ mờ nơi miền quê hoang vắng, đôi khi chỉ tiếng dế gọi hè, tiếng ễnh ương cóc nhái gọi mưa... nhưng chắc một điều những vọng âm ấy đủ làm cho ta dù ở đâu cũng đôi lần bật dậy.

Và đây: “Dần sáng/ Nhà ai thổi cơm sớm/ gạo đổ vào nồi để lại tiếng vang/ nuôi nhau qua ngày giáp hạt”.

“Gạo đổ vào nồi để lại tiếng vang” – “tiếng vang” này nó cồn cào bụng dạ quá! Câu thơ mộc từng chữ, khổ thơ như một xóm nhỏ quần quây khói bếp chầm chậm hiện về. Lối kể giản dị, chẳng hiểu sao tôi lại thấy mẹ tôi đang ngồi bên bếp lửa, tôi muốn giục mẹ thêm củi vào bếp, tiếng gạo reo từ nãy mà đến giờ con chưa được ăn cơm. Con đói!

Còn đây nữa: “Dần sáng/ Mẹ dặn đừng đáp lại/ văng vẳng ai gọi mình/ triền mê ta thầm vụng/ rạc giấc dài chưa tỏ nguồn cơn”.

Từ khổ đầu đến khổ thứ ba này, cách kể, cấp độ liên tưởng dần nâng lên, từ thực đến siêu thực, từ thấy đến cảm thấy. Từ cánh đồng quê, từ bóng cha, dáng mẹ mà thấy lại mình. Suy cho cùng nhớ nhà, nhớ quê là nhớ chính mình. Cho đến khổ 4, khổ 5 thì tác giả mới sực nhớ: ồ cô bé ngày xưa giờ làm mẹ, đã là mẹ. Khuôn trăng quê, mình đã mang lên thành phố còn đâu? Đôi khi “tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ” là thế! Mẹ dặn chẳng bao giờ thừa, mình gọi mình, văng vẳng như ai gọi mình... cứ kệ gọi thôi, đừng đáp lại!

Thế nên: “sung một đời buông quả/ không chạm nổi đáy ao”. Ơ kìa một giọt nước trong ao nhà mình... tròn xoe, be bé bay lên. Bay lên, bay lên một chút với trời rồi cuối cùng cũng về sông về bể. Trái sung kia thì nói với ta rằng: nghề của tôi là rụng, là nổi trôi... tôi xuống đáy hồ đáy sông làm gì. Ừ, thì vậy. Sung không chạm đáy ao, cũng nhưng chúng ta chẳng bao giờ đi đến tận cùng, còn sống nghĩa là còn suy niệm chẳng bao giờ thôi nuối tiếc.

“Dần sáng” - với cấu trúc ngẫu hứng, bằng bút pháp riêng để kể, tả, ẩn dụ, chữ nghĩa mềm mại, tác giả chẳng “định nghĩa, áp đặt, kết luận” điều gì, như sung tới lúc thì buông quả, như hết tờ mờ thì bình minh. Thi điệu cứ thong thả mà luồn vào tâm thức người đọc. Thơ vắt qua ngày, len giữa nhập nhoạng sáng và tối, không gian thơ là những vòng cung sóng âm cứ lan ra từ tâm người viết rồi dần/ lóe sáng khi gặp người đọc. Giống như R.Tagore từng nói về thơ haiku “Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi nhanh chóng bước tránh sang bên…” dành cho người đọc, cùng với người đọc mà dần sáng!

Bài liên quan
  • Vinh danh nữ sĩ bằng ngôn từ tiểu thuyết
    Sống ở khoảng cuối thế kỷ 18, Hồ Xuân Hương là một nhân vật nổi tiếng và còn gây nhiều tranh cãi. Đã có rất nhiều tài liệu, tác phẩm văn chương, âm nhạc, hội họa xoay quanh cuộc đời, tác phẩm của bà… “Hồ Xuân Hương tiếng vọng” của nhà thơ, nhà báo Nghiêm Thị Hằng là một trong số đó. Cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về nữ sĩ đã ra mắt bạn đọc năm 2022.
(0) Bình luận
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Như những vòng sóng âm lan tỏa
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO