Khúc tình thu – một khát khao giao cảm
Mùa thu từ cổ chí kim vốn đã là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ thi sĩ. Thơ tình về mùa thu của người Việt, chỉ tính từ thời Thơ Mới đến nay cũng đã có rất nhiều, thậm chí nhiều bài trong số đó đã được phổ nhạc thành những ca khúc nổi tiếng như “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư (Phạm Duy, Hữu Xuân phổ nhạc), “Tỳ bà” của Bích Khê (Phạm Duy phổ nhạc), “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh (Phan Huỳnh Điều phổ nhạc), “Khúc mùa thu” của Hồng Thanh Quang (Phú Quang phổ nhạc), “Yên tĩnh” của Giáng Vân (Phú Quang phổ nhạc thành ca khúc “Đâu phải bởi mùa thu”)…
Mùa thu
Tăm cá vỡ mặt hồ
Sóng chạm vào nỗi nhớ
Tới em
Mùa thu
Tiếng chim gù
Cuối phố
Em còn nhìn bỡ ngỡ
Hai mắt tròn như đôi tiếng chim
Khi lặng lẽ khẽ tìm
Một chấm hè son trên cành phượng
Cái tuổi biết yêu thu đầy mộng tưởng
Mà ngày ơi đã ngắn dần rồi
Thu về chín vỡ trong tôi
Hương bao trái lạ rối bời lời chim
Thu đi để lại bên thềm
Nghìn con mắt lá đang nhìn về đâu
Chúng mình đã lỡ thương nhau
Đừng như thu rụng đôi màu lá thu
Lâm Huy Nhuận
Trong cả một rừng những thi phẩm ấy, “Mùa thu” của Lâm Huy Nhuận vẫn tìm ra được một lối đi riêng. Phần ghi chú về ngày tháng cho ta biết bài thơ được viết từ năm 1978 nhưng mãi hơn 20 năm sau mới được in vào tập thơ “Chiều có thật” (1999), một tập thơ tình nổi tiếng của người con trai thi sĩ Yến Lan.
“Mùa thu” của Lâm Huy Nhuận là một tiếng lòng sẻ chia, một khát khao tình yêu của thi sĩ được bày tỏ qua tiếng nói người con trai. Người yêu lúc này không ở bên, có một khoảng cách xa nhau nhất định, nên thi phẩm mới mở ra bằng nỗi nhớ: “Tăm cá vỡ mặt hồ/ Sóng chạm vào nỗi nhớ/ Tới em”.
Khổ thơ thứ nhất chỉ gồm ba câu. Tình thu mở ra thật khẽ khàng bởi âm thanh rất mỏng, nhẹ. Chỉ là một tiếng tăm cá vỡ. Hình ảnh là cái đập vào mắt ta nhiều hơn. Từ cái mong manh của tăm cá vỡ ấy, những con sóng của nỗi nhớ người yêu cứ lan dần, lan dần.
Mạch thơ chuyển từ xa về gần. Khổ thứ hai cũng gồm ba dòng nhưng số chữ lại ngắn hơn khổ trước, chỉ gồm 7 từ: “Mùa thu/ Tiếng chim gù/ Cuối phố”.
Nếu như khổ thơ đầu nghiêng về hình ảnh thì khổ thứ hai nghiêng về âm thanh. Tiếng chim mùa thu nổi lên và dường như đó là tiếng chim gọi bạn, tiếng chim tìm bạn. Nhưng “cuối phố” vẫn còn xa quá, nhịp thơ tiếp tục tiến về gần hơn với lòng mình để hiện ra bóng dáng một người con gái: “Em còn nhìn bỡ ngỡ/ Đôi mắt tròn như đôi tiếng chim”.
Câu thơ thật đẹp và gợi cảm. Tả về đôi mắt của người yêu mà lại tả bằng tiếng chim, không những thế, phải là “đôi tiếng chim”, nghĩa là âm thanh của tình tự, của đôi lứa. Đôi mắt ấy không lời mà giống như đã nói bao điều. Sau khi đã xuất hiện những hình ảnh mùa thu, âm thanh mùa thu thì bây giờ ta bắt gặp những màu sắc: “Khi lặng lẽ khẽ tìm/ Một chấm hè son trên cành phượng/ Cái tuổi biết yêu thu đầy mộng tưởng/ Mà ngày ơi đã ngắn dần rồi”.
Lạ! Đang nói thu bỗng đột ngột dịch chuyển thời gian ngược về mùa hè. Thì ra lòng người đang sợ thời gian trôi đi quá nhanh. Thời gian trôi đi nhanh thì e rằng những ngày tháng yêu nhau cũng dường như ngắn lại. Bởi thế thu vẫn còn đang ở đây mà phải níu kéo những chấm son trên cành phượng và thấy thời gian trôi đi thật rõ rệt, nằm ngoài sự kiểm soát của con người: “Mà ngày ơi đã ngắn dần rồi”.
Sau ba khổ với nhịp thơ tự do lúc trầm bổng khoan thai, lúc hối hả níu kéo, khổ cuối của thi phẩm gồm 6 câu bỗng chuyển về thể lục bát đều đặn ngọt ngào như thể thi sĩ không còn che giấu được lòng mình. Đó chính là sự bảy tỏ tình yêu một cách nồng nàn nhất, tha thiết nhất với người con gái của anh:
“Thu về chín vỡ trong tôi/ Hương bao trái lạ rối bời tiếng chim/ Thu đi để lại bên thềm/ Nghìn con mắt lá đang nhìn về đâu/ Chúng mình đã lỡ thương nhau/ Đừng như thu rụng đôi màu lá thu”.
Ta thấy một kết cấu vòng tròn thật đẹp mắt đã xuất hiện trong thế tương ứng từng cặp hình ảnh với những khổ thơ đã xuất hiện trước đó. Từ “tăm cá vỡ” ở khổ một phát triển thành “thu về chín vỡ”. Từ “tiếng chim gù cuối phố” đã chuyển thành “rối bời tiếng chim”. Từ đôi mắt của người yêu nay tương ứng với “nghìn con mắt lá”. Nếu như ở những khổ thơ trước đã xuất hiện đầy đủ các hình ảnh, âm thanh, màu sắc thì đến khổ này xuất hiện tiếp làn hương (“hương bao trái lạ”) như thể cho đầy đủ cảm nhận của tất cả những giác quan. Và làn hương của trái lạ - trái mùa thu – trái tình yêu ấy cứ làm lòng người xao xuyến rưng rưng mãi, đến độ phải bật thành lời, thành một khát vọng tình yêu: “Chúng mình đã lỡ thương nhau/ Đừng như thu rụng đôi màu lá thu”
Người phương Tây gọi mùa thu là mùa lá rụng, mùa của những chiếc lá lìa cành. Những sắc vàng sẽ nhuộm dần những tàn phai để rồi chia đôi hai nửa, khác biệt với những chiếc lá xanh còn sót lại. Thi sĩ ước nguyện đừng bao giờ có sự chia lìa ấy bởi lứa đôi yêu nhau phải là một sự thống nhất, hòa hợp nguyên vẹn như thể làn hương duy nhất, thanh âm duy nhất, sắc lá duy nhất. Giọng thơ nồng nàn mà vẫn kín đáo bởi tác giả dùng chữ “thương” chứ không dùng chữ “yêu”. Chữ “lỡ” đi trước cho ta cảm giác tình yêu đến lúc nào chẳng hay, nhẹ nhàng mà cũng quá đỗi bất ngờ; nhưng vô cùng tự nhiên như thể một tất yếu.
Từ đầu đến cuối thi phẩm là lời ngỏ của chàng trai. Đất trời mùa thu và tình yêu của lòng người dần được bày tỏ, thổ lộ, đi từ xa về gần. Mùa thu từ chỗ như mới đến đã dâng lên đến đỉnh điểm nồng nàn nhất: “chín vỡ”. Dường như cô gái cũng đã nghe thấy được những tỏ bày rất đỗi chân thành này, để tình yêu của chàng trai không phải là mối tình của một kẻ đơn phương. Ta thầm mong sao đôi lứa ấy sẽ đi đến tận cùng của một tròn đầy: “Đừng như thu rụng đôi màu lá thu”./.