Văn hóa – Di sản

Nguyễn Trung Ngạn – một hồn thơ hào phóng, giàu khí phách

Tạ Ngọc Liễn 14/11/2023 10:27

Trong văn học đời Trần, Nguyễn Trung Ngạn là một thị gia có cốt cách riêng rất rõ, được Phan Huy Chú đánh giá cao, cho rằng thơ ông nhiều bài hay, nhiều câu hay, lời thơ “hùng hồn, phóng khoáng”, gần với khí phách thơ Đỗ Phủ nhà Đường.

Nguyễn Trung Ngạn hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thị, nay là Ân Thi, Hưng Yên, sinh năm 1289, mất năm 1370. Ông đỗ Hoàng giáp năm 16 tuổi (1304) cùng khoa thi với Mạc Đĩnh Chi.

nguyen-ngan.jpg
Đền thờ Nguyễn Trung Ngạn.

Nguyễn Trung Ngạn là người có chí lớn và tài năng lớn, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng dưới các triều vua Minh Tông, Hiến Tông. Dụ Tông như Kinh lược sứ trấn Lạng Giang, Đại hành khiến, Thượng thư hữu bật, kiêm công việc Viện khu mật... Đặc biệt đối với Thăng Long, năm 1341, Nguyễn Trung Ngạn được cử giữ chức Đặc doãn Kinh sư (tức Đại an phủ Kinh sư), có trách nhiệm trông coi tất cả công việc ở Kinh sư Thăng Long.

Theo Nhân vật chí của Phan Huy Chú thì Nguyễn Trung Ngạn còn là một nhà ngoại giao giỏi. Ông đã đi sứ sang Trung Quốc, và năm 1324, bằng lý lẽ đanh thép, sắc sảo, Nguyễn Trung Ngạn đã làm cho viên sứ thần ngạo mạn của triều Nguyên là Mã Hợp Mưu phải kính nể khuất phục, xuống ngựa đi bộ vào kinh thành Thăng Long. Ông còn là nhà chính trị sáng suốt, công tâm, biết chăm lo tới đời sống nhân dân; nhà làm luật; nhà sử học. Ngoài ra, Nguyễn Trung Ngạn đã có công theo vua Trần đi đánh dẹp vùng biên cương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước.

Về trước tác, Nguyễn Trung Ngạn có viết cuốn Thực lục, ghi chép việc Trần Minh Tông năm 1329, khi đã làm Thái thượng hoàng, đi đánh quân Ngưu Hống, và cùng với Trương Hán Siêu biên soạn bộ Hình thư, bộ Hoàng triều đại điển.

Về thơ, Nguyễn Trung Ngạn có Giới Hiên thi tập (Tập thơ của Giới Hiên). Cũng theo Phan Huy Chú (Văn tịch chí), nguyên bản Giới hiện thi tập thất lạc đã lâu. Phan Huy Ôn (chú ruột Phan Huy Chú) đi thu thập số thơ của Nguyễn Trung Ngạn tản mác ở các nhà được 80 bài, làm thành sách Giới Hiên thi cảo. Giới Hiên thi cảo hiện được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ngoài văn bản này, thơ Nguyễn Trung Ngạn còn được bảo lưu trong nhiều thi tuyển xưa như Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển...

Khi bình luận thơ Nguyễn Trung Ngạn, Phan Huy Chú đã lấy thơ thời Thịnh Đường làm chuẩn mực và quả là nhà bác học Phan Huy Chú có con mắt thẩm định thơ thật tinh tế qua những bài ông chọn trích vào Văn tịch chí cùng lời nhận xét rằng thơ Nguyễn Giới Hiên “vừa có khí mạnh mẽ, vừa thanh nhã, đẹp đẽ”:

Nhất thủy bạch tòng thiên thượng lạc,

Quần sơn thanh đáo hải môn không.

(Qua cửa Thần Phù)

(Một dòng nước trắng từ trên trời rơi xuống,

Mấy ngọn núi xanh chạy dài đến cửa biển không cùng)

Nhất thốc lâu đài tàng thế giới,

Tử thời hoa điểu biệt nhân gian.

(Qua chùa Yên Tử)

(Một dãy lâu đài giấu bên trong cả vũ trụ,

Bốn mùa hoa, chim tách biệt với thế gian)

Thơ Nguyễn Trung Ngạn rất giàu hình tượng mà thường là những hình tượng kỳ vĩ của núi sông, trời, đất:

Vân đào tuyết lãng tử man man,

Chi trụ trung lưu ngật nhất san..

Càn khôn noãn phá hồng mông hậu,

Nhật nguyệt bình phù hiệu diểu gian...

(Hồ Động Đình)

(Bốn bề mông mênh làn sóng bạc,

Đột ngột một quả núi như cột đá giữa dòng.

Trời đất như quả trứng vỡ ra sau thời hồng hoang,

Mặt trời, mặt trăng như bèo nổi giữa khoảng không bất ngất)

Vào đầu đời Trần Minh Tông, Nguyễn Trung Ngạn được cử đi sứ sang Trung Quốc và trong cuộc đi sứ này, ông đã sáng tác khá nhiều thơ mô tả cảnh vật trên lộ trình từ Việt Nam tới Trung Quốc, đặc biệt là các danh thắng của Trung Quốc như hồ Động Đình, lầu Nhạc Dương..., bày tỏ ý thức trách nhiệm, nỗi nhớ nhà, nhớ nước của người sứ thần.

Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Mạc Đĩnh Chi, Đinh Củng Viên, Phạm Tông Mại là những nhà thơ đã phát triển một đề tài mới trong văn học đời Trần, đó là đề tài Thơ đi sứ, với những nội dung phong phú, những xúc cảm mới lạ. Lần đầu tiên, có thể nói như vậy, phong cảnh đất nước Trung Hoa hùng vĩ, đẹp đẽ xuất hiện trong thơ Việt Nam một cách đậm đà, sâu sắc đầy gợi cảm.

Những bài thơ đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn được đời sau truyền tụng nhiều là Động Đình hồ, Nhạc Dương lâu...

Nhưng hay nhất trong thơ đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn có lẽ là bài Ung Châu và bài Khâu Ôn dịch (Trạm Khâu ôn). Bài Khâu Ôn dịch thể hiện tư tưởng yêu chuộng hòa bình, muốn sống trong tình huynh đệ với các nước láng giềng:

Văn tận Thiên Hà tẩy giáp binh,

Miếu đường vô ý sự biên chinh.

Giang sơn hữu hạn phân Nam Bắc, H

ồ Việt đồng phong các đệ huynh...

(Kéo hết nước sông Thiên Hà rửa sạch áo giáp và vũ khí,

Ở triều đình ta không muốn có đánh nhau nơi biên giới.

Núi sông đã có giới hạn phân chia rõ Nam, Bắc.

Người Hồ, người Việt cùng giống nhau về phong hóa, đều là anh em...)

Còn Ung Châu là bài thơ hoài cổ, hoài niệm về một chiến tích lịch sử anh hùng của dân tộc:

Hào kiệt tiêu ma hận vị lưu,

Đại giang y cựu thủy đông lưu.

Quảng Tây hình thắng vô đa cảnh,

Lĩnh ngoại phồn hoa độc thử châu.

Cố lũy tinh kỳ thê lạc chiếu,

Không sơn cổ giác tống thâm thu.

Tòng quân lão thú tằng kinh chiến,

Thuyết đáo Nam chinh các tự sầu.

Dịch thơ:

Hào kiệt tiêu mòn, hận chửa nguôi,

Như xưa sông lớn chảy về xuôi.

Quảng Tây cảnh đẹp không nhiều lắm,

Lĩnh ngoại, phồn hoa châu ấy thôi.

Ngưng nắng cờ tinh im trước lũy,

Tiễn thu kèn trống vắng bên đồi.

Lính già từng trải mùi chinh chiến,

Nghe nói Nam chinh thảy rã rời.

Ung Châu của Nguyễn Trung Ngạn là một trong những bài thơ hoài cổ hay nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Hoàn thiện hồ sơ đề cử Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê là di sản văn hóa thế giới
    Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính về việc gửi Hồ sơ đề cử "Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê, tỉnh An Giang" (bản dự thảo) tới Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) để đề nghị công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
  • Chuyện ông hiệu cờ trong hội Gióng Phù Đổng
    Hội làng Phù Đổng (huyện Gia Lâm) diễn ra vào ngày mồng 9 tháng Tư âm lịch nhằm tái hiện trận đánh giặc Ân của người anh hùng huyền thoại ở làng Gióng.
  • Liên hoan Ca trù Hà Nội 2025: Lan tỏa và phát huy giá trị di sản nghệ thuật độc đáo
    Tiếp nối thành công của Liên hoan Tài năng trẻ ca trù Hà Nội năm 2016, năm 2019 và năm 2022, sáng 27/9, tại Bảo tàng Hà Nội, Sở Văn hóa và Thể thao tổ chức khai mạc Liên hoan Ca trù Hà Nội lần thứ Tư - năm 2025.
  • Địa điểm đặt hòm phiếu cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội được xếp hạng Di tích lịch sử TP Huế
    Đình làng Vạn Xuân - Địa điểm đặt hòm phiếu cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xếp hạng Di tích lịch sử TP Huế.
  • Nhà thờ họ Giang Nguyên ở làng Triều Khúc
    Làng Triều Khúc (nay thuộc phường Thanh Liệt, Hà Nội) xưa có tên là Trang Khúc Giang. Một thời làng có tên gọi là Đơ Đồng, rồi khi có nghề dệt Thao gọi là làng Đơ Thao. Dòng họ Giang Nguyên ở Triều Khúc là một họ đặc biệt, chỉ tồn tại duy nhất tại vùng đất này. Theo gia phả, họ Giang Nguyên đến định cư tại Triều Khúc từ thế kỷ thứ VI, thời kỳ nội thuộc nhà Đường. Khi ấy, cùng với các họ Triệu, Bùi, Hoàng và Nguyễn, họ Giang là một trong năm dòng họ đầu tiên đến lập ấp ở khu vực giếng Liên (nay là khuôn viên Học viện An ninh Nhân dân).
  • Tục kiêng kỵ ở đình Hà Vỹ
    Đình Hà Vỹ thuộc thôn Giao Tác, xã Thư Lâm, TP. Hà Nội, tên cổ là đình Quậy (hay Quẫy). Theo truyền thuyết, khi An Dương Vương dời đô từ Bạch Hạc (Việt Trì) xuống đã chọn vùng đất Cổ Loa để định đô. Dân cư tại đây được lệnh di dời để lấy đất xây thành. Tuy không muốn rời đi, nhưng dân phải tuân theo phép nước nên xin được chuyển đến khu đất trũng phía ngoài.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Nguyễn Trung Ngạn – một hồn thơ hào phóng, giàu khí phách
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO