Ngày xuân nhìn về văn hiến Thăng Long
Nếu tính từ thời điểm vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, Hà Nội trải qua 1015 năm lịch sử. Trong suốt hơn 10 thế kỷ ấy, nền văn hiến Thăng Long đã được hình thành và kết tụ bởi một tinh thần bảo vệ độc lập dân tộc, một nền văn hóa độc lập và trường tồn, trong đó phong tục, giao thương, ứng xử, văn chương, nghệ thuật, kiến trúc… là tố chất điển hình, tạo cốt cách, bản ngã con người Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay.
Nói về di sản văn chương, có thể nhắc tới những kiệt tác ở các triều đại: Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn. Khởi đầu là “Chiếu dời đô” của vua Lý Công Uẩn. Ngoài ý nghĩa tuyên ngôn về đất nước, dân tộc và thời đại, đây được coi như một áng văn hay về mảnh đất và con người Thăng Long - Hà Nội. Tiếp đó là những “bộ sưu tập văn chương” đồ sộ của các bậc tiền nhân có sức ảnh hưởng đến đạo lý, đến nhân tình thế thái của của từng thời đại nối tiếp nhau. Ví như các bộ: “Việt âm thi tập” của Phan Phu Tiên, “Tinh tuyển thi tập” của Dương Đức Nhan, “Trích Diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương,“Toàn Việt thi lục” của Lê Quý Đôn và “Hoàng Việt thi tuyển” của Bùi Huy Bích...
Thêm vào đó, nhiều danh nhân đã để lại các áng văn bằng chữ Hán thật vô biên, phản ánh về trật tự xã hội, ý chí, tâm lý, quan hệ bang giao và đạo đức xã hội như: “Tụng giá hoàn kinh sư” (Trần Quang Khải), “Thuật hoài” (Phạm Ngũ Lão), “Bạch Đằng giang” (Trương Hán Siêu), “Am Vân tiêu” (Trần Nhân Tông), “Cảnh chiều” (Mạc Đĩnh Chi), “Trường An hoài cổ” (Trần Quang Triều), “Trường An thành hoài cổ” (Nguyễn Trung Ngạn), “Xuân đán” của Chu Văn An, “Bạch Đằng giang”(Trần Minh Tông), “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Đề tháp Báo Thiên” (Phạm Sư Mạnh); rồi thơ của Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Tử Thành, Đặng Dung, Đinh Liệt, Nguyễn Húc, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh… Kế tiếp sau là thơ phú của Nguyễn Giản Thanh, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Công Trứ, Lê Hữu Trác, Bùi Huy Bích, Phan Huy Ích, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương… Khối di sản văn chương vô giá này đã trở thành linh hồn gốc cho mọi sáng tạo văn chương thời đại ngày nay.
Văn chương gắn liền với giáo dục và coi giáo dục là cái gốc của sáng tạo. Từ ngàn xưa tới nay, Hà Nội luôn là trung tâm giáo dục, đào tạo lớn nhất của cả nước, nơi hội tụ nhân tài khắp mọi miền. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của con người Thăng Long đã tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển tiếp nối của nền giáo dục muôn đời, đồng thời là cơ sở để tạo nên bản sắc văn hóa, cốt cách thanh lịch của người Tràng An.
Kể từ khi vua Lý Công Uẩn định đô tại Thăng Long, nền giáo dục kinh đô bắt đầu được gây dựng và phát triển với sự ra đời của Văn Miếu (1070) và Quốc Tử Giám (1076) mở đầu cho sự phát triển rực rỡ của sự nghiệp giáo dục Việt Nam. Với nền giáo dục Nho học qua các triều đại, Thăng Long chính là nơi diễn ra các kỳ thi tuyển chọn nhân tài. Tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám - ngôi trường bề thế mang tầm cỡ quốc gia đầu tiên đã diễn ra nhiều kỳ thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước và 82 bia tiến sĩ ở đây là bằng chứng lưu dấu với thời gian về trung tâm giáo dục, đào tạo của nhiều triều đại.
Gần như liền mạch với thơ là diễn xướng dân gian. Hà Nội là nơi hội tụ tinh hoa của mọi miền đất nước nên nghệ thuật diễn xướng dân gian cũng rất phong phú, đa dạng (từ chèo, tuồng, múa cổ, múa rối nước, hát trống quân, hát chèo tàu, ca trù, hát dô…). Mỗi loại hình đều cho thấy sự tinh tế, sâu sắc về nội dung, đa dạng về hình thức, phản ánh đời sống tinh thần phong phú của ông cha ta ngày xưa, góp phần tạo nên bề dày tinh hoa văn hóa đất Thăng Long. Ví như nghệ thuật ca trù (hát ả đào) có nguồn gốc tự lâu đời nhưng thịnh nhất là từ thế kỷ 15, được giới hoàng thân, quý tộc, văn nhân, tài tử yêu thích. Từ xưa, ca trù được diễn xướng ở nhiều địa phương khác nhau, nhưng loại hình diễn xướng này thịnh hành nhất là ở kinh đô Thăng Long. Nghệ thuật ca trù bao hàm nội dung văn chương ẩn ý, nặng về những trăn trở, tâm tư, tình cảm, thân phận gắn liền với thế sự và vận hội… qua các thể cách, múa, hát, nói và diễn xướng, tất cả thể hiện là một bộ môn nghệ thuật điêu luyện đỉnh cao, góp phần tô đậm nét văn hóa hào hoa của nhu cầu đời sống thẩm mỹ.
Nói đến văn chương, giáo dục, âm nhạc… không thể không nhắc tới hình thức tín ngưỡng và lễ hội. Đây là di sản văn hóa quý báu đã tồn tại, đồng hành và tạo nên ký ức văn hóa của dân tộc. Vượt qua thời gian, tín ngưỡng, lễ hội đã lan tỏa và có sức sống bền bỉ trong đời sống tinh thần của nhân dân. Trong số các di tích tôn giáo, tín ngưỡng, Tứ trấn Thăng Long - bốn ngôi đền thờ bốn vị thần trấn giữ bốn hướng: Bạch Mã (trấn Đông), đền Voi Phục (trấn Tây), đền Kim Liên (trấn Nam), đền Trấn Vũ (trấn Bắc) như một phương thức sáng tạo không gian thiêng liêng đặc biệt; lại thêm chùa Một Cột ở khu vực Tây Nam và các đạo quán (nhất là Bích Câu đạo quán)… đã phản ánh đậm nét đời sống, văn hóa, tín ngưỡng người dân đất Thăng Long.
Nói riêng về lễ hội, từ xa xưa nhân dân đã sáng tạo ra lễ hội và coi như cuộc sống thứ hai của mình. Lễ hội sống động màu sắc dân gian, phần thể hiện nào cũng nhằm hướng con người tới những ước mơ, khát vọng về cuộc sống chân, thiện, mỹ. Với bề dày lịch sử, Kinh đô là nơi tập trung sự giao thoa văn hóa với nhiều nền văn hóa khác trên thế giới, lễ hội Thăng Long - Hà Nội vô cùng phóng phú, hấp dẫn với hơn 1.000 lễ hội. Ngoài các lễ hội quy mô như lễ hội chùa Hương, lễ hội gò Đống Đa, hội Gióng… Hà Nội còn có nhiều lễ hội được tổ chức rải rác trong năm. Tinh thần, đặc trưng nguồn gốc văn hóa, lịch sử cũng như những khát vọng của người Việt nói chung và người Thăng Long xưa nói riêng đều được thể hiện rõ nét thông qua hình thức lễ hội. Đây cũng là những giá trị văn hóa quý giá, mang đậm sắc thái vùng miền, bản năng và sắc thái riêng biệt của dân tộc ta.
Cùng với các di sản văn hóa phi vật thể, nghề thủ công truyền thống cũng đã góp phần tạo nên bề dày của văn hiến Thăng Long - Hà Nội. Xưa kia, Thăng Long đã có nhiều nghề thủ công. Có thể kể tới nghề đúc đồng Ngũ Xã (Ba Đình), vàng bạc ở Định Công (Hoàng Mai), dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông), gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm), mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ), nghề thêu Quất Động, sơn mài Hạ Thái (Thường Tín), khảm trai Chuôn Ngọ (Phú Xuyên)… Tương truyền, 36 phố phường hình thành từ thời nhà Lý - Trần là một đô thị cổ bao gồm khu vực trong và ngoài phố cổ Hà Nội. Vào những năm đầu thế kỷ XI, nơi đây là khu dân cư sinh hoạt và buôn bán vô cùng sầm uất. Đặc trưng của khu phố cổ là những phố làng nghề, thu hút những người thợ thủ công từ các làng nghề quanh kinh thành Thăng Long tụ tập về 36 phố phường Hà Nội xưa để kinh doanh, buôn bán.
Hà Nội hôm nay ngày một phát triển nhưng trong lòng Thành phố vẫn in đậm dấu ấn lịch sử với hàng nghìn di tích, công trình kiến trúc trong đó có những công trình có niên đại cả trăm, nghìn năm. Sự hòa quyện giữa các đường nét kiến trúc cổ với nghệ thuật kiến trúc Pháp đã tạo cho Hà Nội nền di sản kiến trúc vô cùng giá trị, vừa cổ kính vừa hiện đại. Tiêu biểu là chùa Một Cột, hồ Gươm, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hoàng thành Thăng Long, Nhà hát Lớn, cầu Long Biên… Đây cũng chính là một thành tố tạo nên bề dày của văn hóa đất Kinh kỳ.
Và như là một yếu tố tất yếu của văn hiến Thăng Long, đó là nét hào hoa, thanh lịch.
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
Dẫu không thanh lịch,
cũng người Tràng An!
Nét hào hoa thanh lịch ấy đâu dễ hình thành trong ngày một, ngày hai mà chính là tự Thăng Long - Hà Nội chung đúc hồn thiêng sông núi, vượng khí tự nhiên hàng mấy ngàn năm. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc từng lý giải: “Thực ra, trong cả nước, chỗ nào văn minh thì đều có người thanh lịch. Nhưng Hà Nội với bề dày nghìn năm tuổi, cả nghìn năm đô thị hóa, thu hút nhân tài bách nghệ bốn phương, đồng thời có giao lưu quốc tế, thời sau thường xuyên hơn, lắm vẻ hơn thời trước, lại là kinh thành, là trung tâm chính trị, văn hóa lớn nhất nước, cũng có nghĩa là thịnh vượng hơn các vùng, tạo ra nền tảng vật chất cũng cao hơn cho nên chất văn minh, thanh lịch cũng đậm đà hơn”. Nét thanh lịch của người Hà Nội thực chất là sự tôn trọng các giá trị tinh thần, đạo lý, văn hóa trong làm ăn, ứng xử, cũng như sinh hoạt hàng ngày, từ ăn, mặc, ở, nói năng, đi lại, thưởng ngoạn văn hóa nghệ thuật… tất cả đều được chăm chút, cân nhắc, tề chỉnh một cách khéo léo, tinh tế.
Nhìn về văn hiến Thăng Long, GS.TS Đặng Cảnh Khanh - nguyên Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Thanh niên cho rằng “văn hiến Thăng Long - Hà Nội chính là sự kết tinh của văn hiến Việt Nam. Văn hiến Thăng Long - Hà Nội tiếp thu tinh hoa của các vùng đồng thời lại chuyển tiếp tinh hoa ấy cho các vùng khác”.
Danh xưng Hà Nội - Thành phố ngàn năm văn hiến vừa là niềm tự hào cũng đặt ra những yêu cầu mới trong phát triển Thủ đô. Ngày nay, khi Thủ đô Hà Nội bước sang giai đoạn hội nhập và phát triển, đặc biệt là trong kỷ nguyên vươn mình cùng dân tộc, truyền thống văn hiến vẫn trường tồn và được xác định như nguồn sức mạnh nội sinh, là bước đệm để xây dựng nên thành phố văn minh, hiện đại./.