Lý luận - phê bình

Làm báo nơi vùng giải phóng

Nhà văn Ngô Vĩnh Bình 07:36 22/06/2024

Tôi học và bắt đầu viết báo từ năm 1974, tại một vùng đất mới giải phóng - đó là Quảng Trị. Nơi ấy lúc bấy giờ là miền đất đói nghèo, đau thương nhưng cũng biết mấy can trường, biết bao thương nhớ… Nói như nhà thơ Chế Lan Viên, ấy là vùng quê: “Những đồi tranh ăn độc gió Lào/ Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ/ Những đồi sim không đủ quả nuôi người/ Cuộc sống gian lao, ít tiếng nói cười/ Chỉ tiếng gió mù trời chen tiếng súng…”.

Nhưng, cũng vùng đất ấy, với tôi suốt đời nặng nợ: “Một tên làng Quảng Trị/ Suốt đời đâu dám quên”, nói như nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh.

nha-van-ngo-vinh-binh-thu-hai-tu-phai-sang-cung-dong-doi-nhap-ngu-nam-1979.jpg
Nhà văn Ngô Vĩnh Bình (thứ hai từ phải sang) cùng đồng đội nhập ngũ năm 1979

Tố Hữu, nhà thơ sinh ra tại Huế, nhưng lại có duyên nợ với Quảng Trị cũng sáng tác những câu thơ, bài thơ đầy da diết viết về miền thương nhớ này. Khi tóc đã ngả màu sương, ông mới có dịp “tìm đường thăm quê”. Đứng trước dòng sông một thời là ranh giới cắt chia đất nước, lòng nhà thơ xao xuyến bồi hồi: “Sông Bến Hải bên bồi bên lở/ Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương/ Cách ngăn mười tám năm trường/ Khi mô mới được nối đường vô ra?/ Bây giờ cầu lại bắc qua/ Ván thơm gỗ mới cho ta gặp mình”… Tuy thế, nhưng khi chúng tôi từ Hà Nội qua Vinh vào thì Quảng Trị vẫn là miền đất:

Anh về Quảng Trị... Gio Linh
Trèo lên dốc Miếu, lặng nhìn Quán Ngang
Bời bời cỏ lút đồng hoang
Chim kêu cành cụt, chang chang nắng cồn
Tả tơi mấy ấp khu dồn
Mái tôn, rào kẽm, tháp đồn chơ vơ!...

Khi ấy, chúng tôi còn là sinh viên năm thứ tư khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Anh em chúng tôi vượt qua cầu Hiền Lương vào Thành cổ Quảng Trị, lên mãi miền Tây mới giải phóng làm công tác dân vận, địch vận, hỏi chuyện bộ đội, xâm nhập thức tế lấy tài liệu viết luận văn tốt nghiệp và đi… cắm cờ Giải phóng (cờ nửa xanh nửa đỏ) ở những vùng đất vừa giải phóng! Tôi nhớ lúc ấy, các bạn ở ban Sử cận hiện đại thì làm luận văn về lịch sử Đảng bộ, lịch sử đấu tranh của quân dân các xã Trung Giang, Trung Hải (thuộc huyện Gio Linh), viết về các gương anh hùng liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng, những đơn vị anh hùng. Chúng tôi học chuyên ban Dân tộc học thì đi điền dã viết về các tộc người ở miền Tây như Pacô, Vân Kiều cùng những thành tích trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của họ. Những anh em sinh viên chuyên ngành Lịch sử Thế giới khác hẳn với các năm trước chỉ được thực tập nghiên cứu qua kho sách của các thư viện thì lần này được đến các xã Triệu Phong, Triệu Trạch, ra chợ vào phố Đông Hà để thực hiện công trình “Khảo sát nghiên cứu tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới tại Quảng Trị”… Vui và cảm động nhất là các cuộc hội ngộ: hội ngộ Nam - Bắc, hội ngộ quân - dân, hội ngộ bạn bè thời phổ thông, thời đại học…

bao-quang-tri-giai-phong.jpg
Báo Quảng Trị giải phóng

Năm ấy, tôi nhớ là năm đầu tiên hai miền Nam Bắc được tự do đi lại qua sông tuyến, qua cầu Hiền Lương. Những người thầy hướng dẫn chúng tôi đi thực tập như GS. Phan Hữu Dật (tổ bộ môn Dân tộc học), GS. Lê Mậu Hãn (tổ bộ môn Lịch sử Đảng)... cũng là những cán bộ miền Nam tập kết đã sống cảnh “ngày Bắc, đêm Nam” mấy chục năm trường. Lần ấy, cũng là lần đầu tiên chúng tôi gặp lại những người bạn cùng khoa, cùng trường mà hôm nào chúng tôi còn “ngồi chung một lớp” nay đã thành những người lính dạn dày. Chúng tôi bùi ngùi khi ngồi thuyền máy, đò máy từ Cửa Việt, Cửa Tùng ngược dòng Thạch Hãn về phố Đông Hà, lên Cam Lộ, lên miền Tây Đakrông, Hướng Hóa… và không ai giấu nổi được những giọt nước mắt khi nghe đâu đó giọng hò:

Hò…ơ…
Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi nghìn năm!

Tôi lại nhớ, trong một hồi ức, cô bạn tôi cũng trong đoàn sinh viên thực tập năm ấy từng chia sẻ:… Bạn ấy có hai người bạn cùng học cấp ba sau là sinh viên nhập ngũ, đang đóng quân tại Quảng Trị. Nhớ bạn, bạn ấy đã mượn xe đạp một mình tìm đến đơn vị bạn đang đóng quân ở gần sân bay Ái Tử. Lần đầu tiên đạp xe vun vút trên quốc lộ (còn được gọi là đường “Việt Nam hóa chiến tranh”) bạn ấy đã làm bài thơ “Thăm bạn cũ” được đăng báo tỉnh. Và bạn ấy không ngờ đó là bài thơ cuối cùng bạn trai của mình được đọc. Bởi chỉ ít tháng sau đó người bạn đã hy sinh trên đường cùng đơn vị tiến vào giải phóng thành phố Huế để lại niềm thương tiếc vô hạn cho gia đình bè bạn cùng ước mơ trở lại giảng đường đại học và trở thành nhà báo, nhà văn còn dang dở.

tac-pham-_may-cay-ve-a-xoc_-cua-nha-van-nha-bao-ngo-vinh-binh-dang-tren-bao-quang-tri-giai-phong.jpg
Tác phẩm “Máy cày về A xóc” của nhà văn nhà báo Ngô Vĩnh Bình đăng trên báo Quảng Trị giải phóng

Với riêng tôi, vào vùng giải phóng Quảng Trị năm ấy, tôi rất muốn tìm lại dấu chân của một người bạn đồng niên, đồng môn - nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm. Anh học khoa Văn, còn tôi khoa Sử, nhưng anh luôn là thần tượng của tôi.

Tôi biết Cầm và đọc thơ Cầm từ những năm đầu của thập kỷ 70, khi anh còn là một thiếu niên Hà Nội. Thơ anh được ký dưới các bút danh rất mùi mẫn như Hoài Thương, Ánh Biếc… Cầm vào đại học, học ngành Văn, đi bộ đội, được giải thơ báo Văn Nghệ và gắn bó tuổi trẻ với mảnh đất Quảng Trị.

tac-pham-xuong-voi-dakrong-dang-tren-bao-quang-tri-giai-phong-cua-tac-gia-ngo-vinh-binh.jpg

Tôi đọc thơ Cầm và cảm thấy Cầm luôn là Hoàng Nhuận Cầm, chẳng lẫn vào với ai được. Một giọng thơ của một người Hà Nội “gốc”, một quân nhân, một con người đã trải qua thời trận mạc. Vào Quảng Trị mùa hè đỏ lửa ấy, tôi tiếc đã không gặp được những người bạn K14, K15 Đại học Tổng hợp Hà Nội, những người lính sinh viên năm ấy, vì các anh còn phải cùng đơn vị đi truy kích địch, chống lấn chiếm, xây dựng và ổn định cuộc sống của nhân dân vùng mới giải phóng. Nhưng thú thật các anh đã truyền cho chúng tôi ngọn lửa yêu đời, yêu nghề mà chúng ta đã mơ ước và đang chập chững bước vào - nghề cầm bút. Và có thể nói, những điều được thấy, được biết và cảm nhận được ở vùng đất này đã nuôi dưỡng chúng tôi đến với nghề báo. Tôi nhớ những lần gặp các anh ở Thông tấn xã Giải phóng, ở báo Quảng Trị giải phóng đóng trụ sở tại thị xã Đông Hà tôi có nêu băn khoăn về cái sự khó của nghề báo. Anh Phân xã trưởng ân cần: “Khó mới phải học, học trong sách vở, học ngoài cuộc đời, học bạn bè anh em. Viết mãi rồi khắc được như người miền núi nói “khắc đi, khắc đến”. Các anh ngày trước cũng thế!”. Nghe theo các anh, về nhà tôi mày mò viết, viết đủ các loại: tin, bài, ghi chép, bút ký, thơ, truyện. Viết cho đài truyền thanh, cho báo huyện, báo tỉnh ở Quảng Trị, viết gửi ra Hà Nội. Nhớ nhất là cái “mũ” của những bài gửi ra Hà Nội với dòng “Từ miền Nam gửi ra” và cái hòm thư ghi địa chỉ người viết rặt những con số cùng những ký tự. Không biết có sự chiếu cố, ưu tiên nào không, các tin bài tôi gửi ra đều được dùng. Tôi nhớ những bài báo viết tại vùng giải phóng Quảng Trị: “Lòng dân các dân tộc Tây Nguyên với Bác Hồ qua thơ ca dân gian” (báo Cứu Quốc), “Chà chấp, tiếng hát của người Bru Vân Kiều” (báo Thống Nhất), “Máy cày về A xóc”, “Xuống với Đakrông” (báo Quảng Trị giải phóng)… Những bài báo này tôi còn giữ được và xem như “tác phẩm đầu tay” của mình trong cuộc đời 50 năm viết báo, làm báo…

image.daidoanket.jpg
Nhà văn Ngô Vĩnh Bình

Mới đây, trong một lần về lại Quảng Trị, gặp lại anh bạn đồng nghiệp từ thời mới tập tọe viết báo làm báo, nghe tôi “hồi ức” lại những ngày xưa thương mến, bạn bảo: “Quê tôi nghèo khó, xa xôi vậy, nhưng là mảnh đất nuôi ông thành nhà báo”. Tôi định “đính chính” gì đó, đại loại như “nhà báo gì, lều báo gì có” hay “nhà báo già rồi” lạc hậu rồi, nhưng không hiểu sao lại ôm ghì lấy bạn và nước mắt như chực ứa ra!

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Bế mạc Festival Thăng Long-Hà Nội năm 2025: Khẳng định vị thế Thành phố Sáng tạo của UNESCO
    Tối ngày 16/11, sau hơn 2 tuần diễn ra nhiều hoạt động sôi động (từ ngày 1-16/11), Festival Thăng Long - Hà Nội 2025 chính thức khép lại tại Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Với chủ đề xuyên suốt "Di sản - Kết nối - Thời đại", Festival đã thu hút gần 200.000 khách tham gia trải nghiệm, gần 1 triệu lượt tiếp cận trên mạng xã hội.
  • Giao lưu, trình diễn nghi lễ và trò chơi kéo co tại đền Trấn Vũ
    Trong khuôn khổ Festival Thăng Long - Hà Nội 2025, sáng 16/11, tại đền Trấn Vũ (phường Long Biên, thành phố Hà Nội) đã diễn ra chương trình giao lưu, trình diễn nghi lễ và trò chơi kéo co. Chương trình do Sở Văn hóa và Thể thao TP Hà Nội phối hợp với UBND phường Long Biên và Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tổ chức, nhân dịp kỷ niệm 10 năm nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa.
  • Diễu hành Áo dài Du lịch Hà Nội 2025: Tôn vinh tà áo Việt, lan tỏa vẻ đẹp Thủ đô
    Chiều nay (15/11), tại không gian hồ Hoàn Kiếm – trái tim của Thủ đô, chương trình Diễu hành Áo dài Du lịch Hà Nội 2025 đã diễn ra sôi nổi, thu hút sự tham gia của khoảng 1.400 người cùng đông đảo nhân dân và du khách. Đây là hoạt động tiếp nối sau Lễ bế mạc Lễ hội Áo dài Du lịch Hà Nội 2025, nhằm lan tỏa tình yêu áo dài và tôn vinh giá trị di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
  • Khu du lịch núi Bà Đen ưu đãi và tặng quà đặc biệt cho giáo viên trong tháng 11
    Tháng 11, Khu du lịch Sun World Ba Den Mountain áp dụng ưu đãi đặc biệt chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam, với vé cáp treo combo Chùa – đỉnh núi chỉ còn 300.000 đồng, cùng voucher quà tặng 100.000 đồng.
  • Trường THCS Xuân La - 60 năm hành trình toả sáng
    Từ ngôi trường nhỏ bên làng Vệ Hồ năm 1965 đến ngôi trường hiện đại giữa lòng Tây Hồ hôm nay, Trường THCS Xuân La đã trải qua 60 năm bền bỉ xây dựng và phát triển. Sáu thập kỷ ấy là hành trình của tri thức, của tình yêu nghề, của những thế hệ thầy cô lặng lẽ gieo mầm và những học trò trưởng thành, góp phần tạo nên bản sắc một mái trường hiếu học, nhân văn và không ngừng đổi mới.
Đừng bỏ lỡ
Làm báo nơi vùng giải phóng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO