Hà Nội xưa - nay

Câu đối Tết ở Thăng Long - Hà Nội

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến 13/02/2024 07:41

Xưa, trong ngày Tết Nguyên Đán, người Việt thường treo câu đối đỏ ở cửa ra vào. Ở Thăng Long - Hà Nội, treo câu đối không chỉ là một nét văn hóa truyền thống mà còn được xem như một hình thức nghệ thuật tao nhã, thể hiện sự sâu sắc trong tư duy của người dân Kinh kỳ.

cau-doi-hay.jpg

Thời Lý - Trần, ngày Tết ở kinh đô Thăng Long, nhà nhà đều treo “Đào phù” (còn gọi là bùa đào, trên vẽ hình Thần Đồ và Uất Lũy). Về “Đào phù”, Hoàng Sĩ Khải (đỗ tiến sĩ năm 1554 làm đến chức Thượng thư kiêm Tế Tửu Quốc Tử Giám triều Mạc) làm bài thơ “Tứ thời khúc vịnh” bằng chữ Nôm dài 336 chữ, trong đó có câu:

Chung Quỳ (tranh) khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà.

Vì sao người ta lại treo “Đào phù”? Ngày 23 tháng Chạp, ông Công, ông Táo cưỡi cá chép về trời, vũ trụ vô chủ, không có thần linh cai quản, vì thế ma quỷ hoành hành. Nhưng ma quỷ rất sợ màu đỏ nên vào ngày này, các gia đình treo “Đào phù” ở cửa, ma quỷ thấy sẽ không dám vào nhà quấy nhiễu. Từ “Đào phù”, người xưa viết câu đối trên giấy hồng điều, bày tỏ mong muốn trong năm mới và treo hai bên cửa. Câu đối trên giấy hồng điều tích hợp ba ý nghĩa: màu đỏ tượng trưng cho may mắn (theo thang giá trị châu Á), xua đuổi ma quỷ và là thú chơi tao nhã, trí tuệ.

Thời Lê sơ, treo câu đối ngày Tết đã trở nên phổ biến ở kinh thành Thăng Long. Gần Tết, dân kinh thành nháo nhác tìm người hay chữ, lạy lục viết cho đôi câu đối treo Tết. Tương truyền, một năm, gần đến giao thừa, vua Lê Thánh Tông, vị vua hay chữ, tài thơ ca vi hành quanh thành xem con dân của mình ăn Tết thế nào. Đến một nhà, ngài không thấy treo câu đối ở cửa, hỏi mới biết đó là một người ở phường nhuộm vải góa vợ, con trai đi lính ở miền biên ải. Ngài bèn sai lấy giấy bút rồi tự tay mài mực và viết:

Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ
Triều trung chu tử tổng ngô môn

Dịch nghĩa:

Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ tạo ra
Đỏ tía chốn triều đình tất cả từ nhà ta ra

Rồi ngài giải thích cho chủ nhà, nghe xong mặt chủ nhà rạng rỡ, vội quỳ lạy vua. Một giai thoại khác cũng gần Tết, vua Lê Thánh Tông giả dạng thường dân vi hành. Đi qua một nhà không thấy có câu đối treo cửa, hỏi thì chủ nhà trả lời do thân phận nghèo hèn nên không dám xin chữ. Gặng thêm, mới biết người này làm nghề hót phân, nghe vậy ngài sai lấy bút mực viết ngay đôi câu đối tặng chủ nhà:

Thân ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự
Thủ trì tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm

Dịch nghĩa:

Mình khoác một tấm nhung y, gánh trọn gian nan trần thế
Tay vung thanh gươm ba thước, tận thu thiên hạ nhân tâm

Viết xong ngài cho dán hai bên cửa rồi cắt nghĩa, nghe giảng giải chủ nhà không còn mặc cảm, thấy tự hào cái nghề của mình.
Kinh đô Thăng Long có nhiều trí thức Nho giáo nên ngoài viết câu đối treo cửa, họ còn viết câu đối treo ở bàn nước, khách đến chúc Tết sẽ luận bàn câu đối. Viết câu đối không hề đơn giản, viết hay càng khó. Ngoài đối ý, đối chữ, câu đối Tết cũng phải tuân theo niêm luật về cú pháp, nhịp điệu, thanh sắc… nên câu đối được cho là đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ. Tiếc là, nhiều câu đối của các bậc danh Nho có ý nghĩa sâu sắc đã không được lưu truyền đến ngày nay.

Thời nhà Nguyễn, Hà Nội có phố Hàng Bồ chuyên bán bút, giấy, mực, nghiên. Từ rằm tháng Giêng, các ông đồ đã trải chiếu ngồi nhờ trước cửa hàng bán câu đối, viết sẵn hoặc chờ khách nhờ viết câu đối mới. Ngay cả khi nhà có tang cũng không thể thiếu câu đối, chỉ có điều giấy viết là màu vàng hay màu xanh lục. Một bài báo đăng trên “Tương lai Bắc Kỳ” năm 1889 mô tả: “Phố Hàng Trống nhà còn thưa, vào áp Tết, ngoài bán tranh, người ta còn bán cả chữ Hán”. Chữ Hán (Nho) mà bài báo nói đến chính là câu đối, nghĩa là ở Hàng Trống, ngoài bán tranh từng bán cả câu đối Tết. Xưa, các danh Nho viết câu đối Tết là để lập ngôn, bày tỏ thái độ về nhân tình thế thái, nhưng khi thực dân Pháp xâm chiếm Hà Nội, câu đối Tết được sử dụng như thứ vũ khí. Hoàng Cao Khải là quan kinh lược của triều đình nhà Nguyễn ở Hà Nội. Là quan nước Việt nhưng lại tuân lệnh Pháp huy động quân đánh nghĩa quân Bãi Sậy. Khi chính phủ bảo hộ bãi chức kinh lược của ông ta thì đêm 30 Tết, một Nho sĩ từ Hưng Yên mang câu đối dán trên tường nhà Hoàng Cao Khải:

Ông ra Bắc là may, chức kinh lược, tước quận công, bốn bể không nhà mà nhất nhỉ
Ông về Tây cũng tiếc, trong triều đình, ngoài chính phủ một lòng với nước có hai đâu

Thời thế đổi khác, đề tài câu đối ngày càng đa dạng, giọng điệu cũng phong phú. Cô đầu không chỉ là kỹ nữ đáng thương, thành nhân vật cho các nhà văn, nhà thơ mà còn xuất hiện trong câu đối Tết. Nhà thơ Tản Đà tặng cô đầu phố Khâm Thiên:

Ai đẻ mãi ra xuân, xuân ấy đi, xuân khác về, năm nay, năm ngoái xuân hơn, kém
Nhà lại sắp có khách, khách quen vào, khách lạ đến, năm ngoái, năm nay khách vắng, đông

Trong nửa đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ, chữ Pháp được sử dụng phổ biến trong xã hội, người viết câu đối bằng chữ Nho và tục chơi câu đối Tết ở Hà Nội thưa dần. Nhà giáo Vũ Đình Liên làm bài thơ “Ông đồ” đăng trên báo “Tinh hoa” năm 1936, tiếc nuối cho một thứ chữ mà lớn hơn, tác giả lo lắng văn hóa truyền thống Việt Nam đang bị mai một: “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bày mực Tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua/ Bao nhiêu người thuê viết/ Tấm tắc ngợi khen tài/ Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa, rồng bay/… Năm nay đào lại nở/ Không thấy ông đồ xưa/ Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?”

bai-tho-ong-do.jpg

Sau 1954, miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa Xã hội, chế độ mới nên nội dung câu đối đã thay đổi. Cũng như văn chương, thơ ca, câu đối tham gia tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Các nhà xuất bản đặt hàng những người am hiểu thú chơi này sáng tác ra các câu đối bằng chữ Quốc ngữ phục vụ mục đích tuyên truyền. Sau đó cơ quan chuyên trách in và bán tại các cửa hàng văn hóa phẩm. Còn trên các tờ báo xuân cũng có câu đối, như:

Lung linh én bạc phanh thây pháo đài bay
ung dung đón Tết
Rực rỡ rồng vàng xé xác bê năm hai đĩnh đạc
vào Xuân

Thời bao cấp, ngoài câu đối “chính thống”, dân gian cũng truyền tai nhau những câu ví như:

Tí mỡ, tí miến, tí mì chính, bán bìa số 9,
chen bẹp ruột
Lít dầu, yến củi, yến mùn cưa bán ô số 3,
xô lòi gan.

Nhiều năm nay, tục xin chữ đầu năm đã “sống” lại. Còn câu đối Tết chữ Nho, chữ Nôm và cả chữ Quốc ngữ lác đác có người chơi. Xã hội thay đổi, không mong thú chơi câu đối thịnh lại như xưa, song có những người như vậy là đáng quý./.

Bài liên quan
  • Nguyễn Đăng Huân - vị quan thanh liêm kiệm ước
    Nguyễn Đăng Huân, tên tự là Hy Khiêm, sinh năm Ất Sửu (1805), người xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây; nay là thôn Hương Ngải, xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Ông đỗ cử nhân khoa Mậu Tý (1828) tại trường thi Bắc Thành. Kỳ thi này, lấy đỗ 20 người, thì Nguyễn Đăng Huân đỗ thứ hai.
(0) Bình luận
  • Kiến trúc Thủ đô (1954 - nay): Dấu ấn qua mỗi chặng đường
    Sau ngày tiếp quản (10/10/1954), từ một thành phố nhỏ bé, với lượng dân số ít, Hà Nội đã vươn tầm trở thành thành phố lớn trong khu vực và thế giới với không gian kiến trúc đô thị đa hệ, giàu bản sắc và phát triển theo hướng văn minh hiện đại. Nhìn lại chặng đường 70 năm qua, có thể thấy ngành kiến trúc quy hoạch xây dựng đã có những đóng góp đáng kể và để lại nhiều dấu ấn. Đây chính là những bước đệm, tạo đà cho sự phát triển của đô thị Hà Nội trong tương lai.
  • Giới thiệu 150 bức ảnh quý về “Hà Nội ngày tiếp quản”
    150 bức ảnh quý về ngày đoàn quân tiến về Hà Nội, giải phóng Thủ đô (ngày 10/10/1954) vừa được giới thiệu với công chúng trong triển lãm ảnh “Hà Nội ngày tiếp quản” tại Trung tâm Thông tin văn hóa Hồ Gươm - số 2 Lê Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm Hà Nội.
  • Chuyện kể ngày tiếp quản Thủ đô
    Năm nào cũng vậy, cứ đến ngày 10/10 là các cựu thanh niên xung phong (TNXP) công tác tiếp quản Thủ đô trong ngày giải phóng năm xưa lại gặp nhau. Dẫu số lượng người tham dự ngày càng ít đi vì người mất, người ốm đau, bệnh tật nhưng mỗi lần gặp lại, những kỉ niệm về ngày tiếp quản Thủ đô lại ùa về trong họ, như chưa từng có dấu vết của thời gian…
  • Bản hùng ca làng kháng chiến của Thủ đô
    Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Thủ đô Hà Nội đã có nhiều “làng kháng chiến” ra đời. Chính ở những ngôi làng ấy, quân và dân đã cùng nhau đánh trận, diệt địch, thu giữ nhiều vũ khí, góp phần làm nên những chiến thắng vẻ vang, tạo thành bản hùng ca và thắp sáng truyền thống anh hùng cách mạng của mảnh đất Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến. Tròn 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, chúng tôi tìm về những làng kháng chiến thuộc địa bàn huyện Đông Anh, Mê Linh và Thanh Oai. Nhữ
  • Đề xuất khôi phục và phát triển "Bát cảnh Tây Hồ" được đề cử Giải thưởng Bùi Xuân Phái
    Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội do báo Thể thao và Văn hóa và gia đình cố họa sĩ Bùi Xuân Phái thành lập từ năm 2008, nhằm trao cho các tác giả, tác phẩm, ý tưởng, việc làm có giá trị khoa học, nghệ thuật cao, thấm đượm tình yêu Hà Nội.
  • Ngày ấy... quê hương & chúng tôi
    Quê tôi - thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội xưa có tên là Ngã Tư Đình thuộc tỉnh Hà Tây. Sở dĩ có tên gọi này là bởi khi ấy Ngã Tư Đình có đường thông bốn ngả: phía Bắc ra Hà Nội; phía Nam xuống Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình…; phía Tây sang Mỹ Đức vào Hòa Bình; phía Đông tới Thường Tín, vượt sông Hồng đến Hưng Yên... Tuy chỉ là con phố nhỏ nhưng nơi đây vẫn được xem là trung tâm chính trị, kinh tế của huyện Ứng Hòa.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Kiến trúc Thủ đô (1954 - nay): Dấu ấn qua mỗi chặng đường
    Sau ngày tiếp quản (10/10/1954), từ một thành phố nhỏ bé, với lượng dân số ít, Hà Nội đã vươn tầm trở thành thành phố lớn trong khu vực và thế giới với không gian kiến trúc đô thị đa hệ, giàu bản sắc và phát triển theo hướng văn minh hiện đại. Nhìn lại chặng đường 70 năm qua, có thể thấy ngành kiến trúc quy hoạch xây dựng đã có những đóng góp đáng kể và để lại nhiều dấu ấn. Đây chính là những bước đệm, tạo đà cho sự phát triển của đô thị Hà Nội trong tương lai.
  • Văn hóa Thủ đô 70 năm tự hào
    Ngày 10/10/1954, khi đoàn quân chiến thắng từ 5 cửa ô tiến vào Thủ đô Hà Nội, một thời kỳ phát triển mới hòa trong dòng chảy lịch sử ngàn năm của văn hóa Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội đã được mở ra. Trải qua 70 năm, văn hóa Hà Nội dù gặp bao gian khó, thăng trầm, biến đổi, nhưng sức mạnh nội sinh chứa đựng vị thế, bản sắc riêng của mảnh đất là trái tim của nhân dân cả nước vẫn trụ vững trong tư thế hiên ngang, cao lớn, tự hào.
  • [Podcast] Tạo động lực phát triển văn hóa Thủ đô lên tầm cao mới
    Phát triển văn hóa là một trong những nội dung quan trọng, đã được Luật Thủ đô sửa đổi thể hiện và nhấn mạnh tại Điều 21 “Phát triển văn hóa, thể thao, du lịch” thuộc Chương III “Xây dựng, phát triển, quản lý và bảo vệ Thủ đô” với nhiều chính sách, cơ chế đặc thù để Hà Nội trở thành trung tâm văn hóa của cả nước. Các quy định mới, đặc thù về phát triển văn hóa và những điều luật khác liên quan trong Luật Thủ đô sửa đổi, là điều kiện thuận lợi để Hà Nội thực hiện thắng lợi Chương trình số 06-CTr/TU, Nghị qu
  • Ngày hội Văn hóa các dân tộc thành phố Lạng Sơn năm 2024
    Đây cũng là dịp tôn vinh và quảng bá các giá trị văn hoá độc đáo của Lạng Sơn tới Nhân dân, du khách trong cả nước và bạn bè quốc tế...
  • Hội Lão khoa đầu tiên ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên “Quản lý toàn diện bệnh lý người cao tuổi”
    Bệnh viện Trung ương Huế tổ chức Hội nghị khoa học Lão khoa với chủ đề “Quản lý toàn diện bệnh lý người cao tuổi” và thành lập hội đầu tiên ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Đừng bỏ lỡ
Câu đối Tết ở Thăng Long - Hà Nội
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO