lê thánh tông

Mấy đặc trưng trong thơ Thăng Long - Hà Nội
Để xác định những khác biệt của thơ Hà Nội so với thơ các địa phương khác cần nhìn lại cả quá trình phát triển của thơ từ thuở lập kinh đô, phải tính đến những tác phẩm không chỉ của những nhà thơ sinh ra và trưởng thành ở Hà Nội, mà còn của những nhà thơ từ những vùng quê khác về sống ở Thăng Long. Và chính họ, những nhà thơ bị (hoặc được) phong cách sống, phong cách thơ của Hà Nội đồng hóa, vốn đông đảo hơn các nhà thơ nguyên quán Hà Nội, đã đóng góp nhiều hơn để tạo nên phong cách trữ tình cho thơ đất đế đô.
  • Thân Nhân Trung – danh sĩ, tao đàn phó súy
    Thân Nhân Trung sinh năm Mậu Tuất (1418), mất năm Kỷ Mùi (1499), tự Hậu Phủ, người làng Yên Ninh, huyện Yên Dũng, trấn Kinh Bắc (nay là xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) song là một danh sĩ có nhiều cống hiến với mảnh đất Thăng Long, đặc biệt trên các lĩnh vực giáo dục và văn học.
  • Vũ Quỳnh – nhà sử học nổi tiếng thế kỷ XV
    Vũ Quỳnh (1453 - 1516), tự là Thủ Phác, hiệu Đốc Trai và Yến Xương. Quê gốc của ông ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Vũ Quỳnh xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Thân sinh Vũ Quỳnh là Vũ Hựu, đỗ Hoàng Giáp năm Quang Thuận thứ 9 đời Lê Thánh Tông (1468). Vũ Hựu là tác giả của Đại thành toán pháp. Về sau con và cháu Vũ Quỳnh có nhiều người đỗ đạt. Vũ Quỳnh đỗ Tiến sĩ năm 26 tuổi (1478), làm quan đến Thượng thư Bộ Lễ, kiêm Đô tổng tài Quốc sử quán. Năm 1516, ông mất trên đường về quê nhà.
  • Kiều Phú - nhà biên soạn xuất sắc
    Kiều Phú là một danh sĩ nổi tiếng đất Thăng Long thời Lê Thánh Tông (1442-1497). Ông sinh năm Bính Dần (1446); chưa rõ năm mất nhưng có sách ghi ông mất năm 1503. Kiều Phú có hiệu Hiếu Lễ, quê quán thuộc Lạp Hạ - Ninh Sơn - Sơn Tây (nay thuộc xã Yên Sơn - huyện Quốc Oai - ngoại thành Hà Nội).
  • Lê Thánh Tông – một ý chí tự cường vĩ đại
    Lê Thánh Tông, tự là Tư Thành, còn có tên là Hạo, hiệu Thiên Nam Động chủ, là con Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Dao - con gái Thái Bảo Ngô Từ, một công thần khai quốc của nhà Lê. Ông sinh ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), tại nhà ông ngoại ở mạn tây nam Quốc Tử Giám, nay thuộc khu đất chùa Huy Văn, Hà Nội.
  • Lương Thế Vinh – nhà toán học xuất sắc thế kỷ XV
    Trạng nguyên Lương Thế Vinh, tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên, sinh ngày 1 tháng 8 năm Tân Dậu (1441) trong một gia đình nông dân có học ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
  • Ngô Chi Lan – nữ học sĩ tài hoa
    Ngô Chi Lan (1434 - ?) sinh ra và lớn lên vào khoảng giữa và nửa sau thế kỉ XV, một trong những thế kỉ “đa sự” nhất trong lịch sử Việt Nam thời Trung đại. Chính thế kỉ XV đã tạo ra những trang sử chất chồng sự kiện với một mật độ dày đặc những “anh hùng” và những nhân vật có “tính vấn đề”, đầy sức hấp dẫn dù nhìn từ góc độ nào chăng nữa. Mỗi con người, mỗi nhân vật đó đều đã được lịch sử “đặt hàng” để làm chứng nhân và trở thành công cụ trong tay nó. Không phải là anh hùng vệ quốc, không phải là tể thần, danh nho nhưng Ngô Chi Lan đã sống và in dấu lên lịch sử với những nét riêng của chính mình, những nét riêng cơ hồ trở thành đơn nhất.
  • Nguyễn Như Đổ - nhà chính trị, nhà ngoại giao tài giỏi
    Nguyễn Như Đổ (1424 - 1526), tên chữ Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, người làng Đại Lan Châu, huyện Thanh Đàm, trấn Sơn Nam (nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Tại kỳ thi Hội đầu tiên thời Hậu Lê (năm Đại Bảo thứ ba, 1442) ông đã đỗ đầu; ngay sau đó thi Đình đậu Bảng nhãn, khi vừa 19 tuổi. Khi Nguyễn Như Đổ vừa thi Đình xong, ông liền được cử làm Soạn chế cáo ở Viện Hàn lâm, năm 1449, thăng lên Trực học sĩ.
  • Bảo tàng Sinh vật (khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội) (quận Hoàn Kiếm)
    Bảo tàng Sinh vật, thuộc khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (trước đây là Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội), ở số 19 Lê Thánh Tông, Hà Nội, là Bảo tàng Sinh vật đầu tiên ở Đông Dương và Việt Nam được thành lập từ năm 1926. Bảo tàng là hình ảnh thu nhỏ về tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học của đất nước.
  • Chùa Ngọc Hồ (quận Đống Đa)
    Chùa Ngọc Hồ tên chữ là Ngọc Hồ tự, hoặc còn gọi là chùa Bà Ngô (người có công đức tu bổ chùa) ở số 128 phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu, quận Đống Đa, Hà Nội.
  • Chùa Nga My (quận Hoàng Mai)
    Chùa Nga My có tên chữ là Nga My tự, có tên nôm là chùa Hoàng Mai, ở số 8 đường Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, cách trung tâm Hà Nội khoảng 6km về phía nam.
  • Chùa Hà (quận Cầu Giấy)
    Chùa Hà (Thánh Đức tự) hiện nay thuộc xóm Bối Hà, thôn Trung, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  • Chùa Bà Nành (quận Đống Đa)
    Chùa Bà Nành thuộc địa phận phường Văn Miếu, quận Đống Đa, Hà Nội.
  • Quán Vọng Tiên (quận Hoàn Kiếm)
    Quán Vọng Tiên hiện ở 120B phố Hàng Bông, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
  • Văn Miếu - Quốc Tử Giám (quận Đống Đa)
    Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở phố Quốc Tử Giám, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, Hà Nội.
  • Đền Trấn Vũ (quận Long Biên)
    Đền Trấn Vũ thuộc địa bàn phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội.
  • Đình Tây Mỗ, đền Am (quận Nam Từ Liêm)
    Đình Tây Mỗ, đền Am thuộc phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
  • Nhà thờ Nguyễn Trãi (huyện Thường Tín)
    Nhà thờ Nguyễn Trãi thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội.
  • Đình Lỗ Khê, nhà thờ Ca Công (huyện Đông Anh)
    Đình Lỗ Khê và nhà thờ Ca Công thuộc thôn Lỗ Khê, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội.
  • Đình Là (huyện Thường Tín)
    Đình Là thuộc xã Tân Minh, huyện Thường Tín, Hà Nội.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO