“Vực trắng” đường gươm sắc trong hành trình sáng tạo của Lữ Mai
Trên hành trình sáng tạo của Lữ Mai, đến “Vực trắng” có điều gì mới hơn những điều đã mới trong chị? Có thể là một không gian, hoặc nhiều hơn thế nhưng vẫn là thế giới của núi rừng, phố thị, người lính như cách mà chị vài năm gần đây “đóng đinh” vào phần lớn bạn đọc của mình? Nghĩ mãi, cuối cùng tôi cũng vỡ lẽ ra, “Vực trắng” ấy còn có thể là “vực” của những mảnh hồn được ghép lại: “Từng mảng khăn xô/ ghép nên mặt ta/ rất rõ” (Đi lạc). Vực cứ đứng đấy, hiện hữu, đau và yên, để “trắng” chuyển động, ấy là điều mới và khác trong tập này của chị.
“Vực trắng” của Lữ Mai gồm 54 bài thơ, được chia làm 6 phần: Từ núi, Đi lạc, Nói bằng gai sắc, Trở về chạng vạng, Gửi Huế và Cánh tàn bừng giấc. Thực ra, đọc kĩ một chút ta sẽ thấy tên các phần chính là sự tiếp nối cho một hành trình tuyến tính của thời gian và tâm lý: hành trình từ núi mà đi lạc, trong tình thế lạc ấy người nói bằng gai sắc, bằng đau đớn. Và sau cuộc tìm kiếm lối thoát đau đớn ấy, người đã trở về trong chạng vạng. Lắng trong tâm tư, kẻ lữ hành nhớ hoài kỉ niệm sâu sắc với Huế và sau cùng là một cuộc hồi sinh, bừng giấc của cánh tàn để khép lại và để mở ra. Mặc dù tuyến tính nhưng phản ánh đủ đầy ý thức, phẩm chất của người sáng tạo. Ấy là Lữ Mai luôn và đang dụng sức mạnh của “linh giác” để nhìn sâu vào thế giới, khiến tất cả những vực núi, vực người trở mình sinh động, độc đáo, màu nhiệm, nhưng vẫn rất tự nhiên như thuộc tính nguyên sơ của nó.
Vực trắng là vực của thiên nhiên. Điều này đúng. Xuyên suốt tập thơ là những bức tranh quen mà lạ. Từ núi là điểm khởi nguồn, từ vực trắng mà xuất phát, ta đến với “con đường ma mị”, nơi “trà sơn cước non mềm mở búp”, “mỏm núi tím”; từ núi biết mây mang bóng dáng tàn tro; từ núi mà đến gió đèo trinh nguyên bịn rịn, suối cạn chân đồi, bí ngô lăn lóc gầm sàn; từ núi đến với Sài Gòn xa xôi, đêm sông Hồng chật sương, phố chật đèn, phố nhà binh; từ núi dừng ở Huế mà vẽ:
nghe từ mây khói
khe khẽ run trong vắt dấu hài
bức tranh ấy nào ai vẽ nổi
dòng Hương lặng lờ
toan thở xanh sâu
(Vẽ)
Đáng chú ý là hệ thống động từ được tác giả đặt vào cảnh vật, tạo tình thế cho thiên nhiên để sự vật ấy có một sự sống, một tinh thần, một tình cảm,… cựa quậy và run rẩy. Ví như “bầy trăng say ngủ”, “mây khói khe khẽ run”, “sỏi đá reo tiếng mèo rừng”, “suối bắt đầu bập bẹ”, “đất nấc vào sâu trũng những giấc mơ”, “mặt lá say đỏ dại sang chiều”, “trà nguội lãng quên hò hẹn”, “đôi hài rêu bật khóc”,… Lữ Mai đã đưa người đọc đến những địa danh thật xa nhưng cũng lắm khi kéo ta về gần với những nơi chốn gần gụi, thân thuộc như chợ, ngõ quen, phố nhà binh, nhà mẹ... Có thể tất cả đều là hoặc không là “chuyến du hành tưởng tượng” nhưng từ chính những “chuyến đi thoát cơn trầm mặc” ấy mà ta dễ dàng thấy thiên nhiên trong thơ chị đầy sức sống, luôn có điều gì nóng rẫy, sáng nét và nổi bật. Đó không là những điều đã phong kín bấy lâu, không là những cách thể hiện thường thấy xưa nay mà được nhìn bởi đôi mắt tinh tế, nhạy cảm, luôn như “sương vừa hé mắt” thanh khiết, tươi mới.
Vực trắng là vực người. Đọc tập thơ độc giả sẽ bắt gặp những thân phận người mà trên hành trình “từ núi” đến “cánh tàn bừng giấc” lắm ưu tư nỗi niềm. Những nhân vật trữ tình và chủ thể “ta”, “mình” như luôn đứng sau một lép cửa, quan sát sâu, xúc động và viết:
lại nghe tiếng người trong đất
đất nấc vào sâu trũng những giấc mơ
biết phải nói gì
đồi núi sông hồ
vết thương vừa mở
(Ngược gió)
người săn mây quên lãng mọi nguyên do
giữ toàn điều mộng tưởng
(Vực trắng)
vẫn gặp những người con gái thêu khăn
rút từng sợi bình minh se chỉ đỏ
(Ngỏ cùng sông)
những bóng người tìm nhau thôi run rẩy
nhẹ hơn bóng núi
và bay
(Từ núi)
cô gái Dao Tiền ít nói
thả nụ cười sau nhịp bước rung reng
(Hò hẹn)
mẹ bạn trò chuyện cùng lửa
sáng phơ phất lau rừng
niềm khúc khuỷu trũng buồn đáy mắt
(Từ Khuổi My)
Như mở hết những vết thương của kiếp người, nhà thơ bước vào và cố gắng nhập cuộc như là vết thương của mình mà nức nở. Thành công của chị là biết cách bộc lộ cảm giác siêu nghiệm ấy bằng ngôn ngữ khác biệt, không sáo mòn, giả tạo mà chân thực sinh động. Tưởng như khách thể hóa đối tượng sẽ không đau buốt nhưng chính chị đã đau như một lẽ đã tồn tại từ sâu thẳm trong hồn.
Với ý thức của người nghệ sĩ, thêm nội lực tài hoa chữ, căng tràn thêm những thăng hoa về mặt cảm xúc, Lữ Mai không để mình đi lạc hay rơi vào bi lụy. Cách chị nhận thức mình “lạc” như phủ định của phủ định, là một cách ý thức cao độ về chính mình để hiểu rất rõ ta là ai. “Trò chơi Ma sói” ấy thế mà không ngẫu nhiên đặt đầu phần đi lạc, và “Bình minh” không tình cờ mà đặt cuối cùng của tập thơ. Sự sắp đặt đầy dụng ý ấy cho bạn đọc ngẫm về một hiện thực và lẽ sống:
cuối trò
thiện cũng chết mà ác thì cũng chết
chiến thắng thuộc về vẻ mặt thơ ngây
bởi họ chọn tin vào những điều rất dở
đầu tiên
là lãng quên con sói ở trong mình.
(Trò chơi Ma sói)
Lữ Mai từng chia sẻ: “Nghiệp chữ nhọc nhằn nhưng cao hơn tất cả đó là hạnh phúc. Trên cánh đồng chữ nghĩa, tôi tìm được chính mình”. Đọc thơ chị, độc giả cũng dễ thấy được những chính mình trong đó. Trước một thế giới nghệ thuật đậm tính siêu thực được tạo bởi tư duy thẩm mỹ khác lạ, thơ chị mở ra nhiều chiều, nhiều cách gợi khác nhau, nhưng một cảm giác thân thuộc luôn hiện hữu - điều mà có thể dùng ngay bằng cách diễn đạt của chị để gọi tên đó là linh giác. Linh giác đi đến cùng là tiếng nói bên trong mách bảo chỉ dẫn con người sống một đời sống đơn giản, đẹp và tự nhiên. Nhưng ở Lữ Mai, linh giác còn gắn liền với quan niệm về thế giới, về con người và về cái đẹp. Sống thực với linh giác, đồng nghĩa với tự do khám phá, chiếm lĩnh thế giới. Dẫu là linh giác của người, vật hay bất kì đối tượng nào, “Vực trắng” vẫn thuộc về đôi mắt nhìn tinh tế, một tư duy sâu sắc và tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ:
khi nàng đã không còn nhớ nổi
khi tình yêu rơi bằng đôi cánh của mình
linh giác sẽ theo trăng
khúc nhạc trắng vào mây khói
(Bạch quyên)
cánh đồng tháng năm oai oải
tiếng cuốc đầy linh giác
(Nhà mẹ)
những bậc thềm cũng biết mến khách xa
cũng linh giác trước đau buồn hờn tủi
(Bậc thềm Đá Bia)
“Vực trắng” của Lữ Mai dẫn người đọc đi vào thế giới nhiều sắc màu, nơi có sự dẫn dắt không chỉ của bản năng, vô thức mà còn là những cảm giác linh ứng, không thể giải thích, cắt nghĩa nhưng chắc chắn là sự thăng hoa “cơn nhiệt hứng của tâm hồn”. Ấy là sự chuyên nghiệp của người viết và những trăn trở của người nghệ sĩ đích thực. Trong không gian tưởng như vô trùng ấy ta thấy được những chuyển động rõ rệt về hành trình sáng tạo của đóa bạch mai ở phố nhà binh. Dù là cơn mê hay ác mộng khiến con người ngộp thở, người nghệ sĩ vẫn khát khao sáng tạo, khám phá và đổi mới chính mình.
Nhà phê bình Văn Giá từng viết: “Nhất quán và đa dạng chính là phẩm chất để định giá một tác giả. Vậy nên, những nghệ sĩ có ý thức cao về nghề bao giờ cũng đi theo tinh thần này. Họ không ngừng nới rộng, đào sâu, làm khác những gì mình đã có. Kết quả cuối cùng là vẫn một phong cách ấy, nhưng luôn được làm đầy lên, phong nhiêu hơn, đa sắc hơn cả về lối viết và tư tưởng”. Điều này rất đúng với Lữ Mai. Với “Vực trắng”, Lữ Mai đã một lần nữa vạch thêm một đường gươm sắc bén trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, về thiên nhiên về con người và về quan niệm sống, sáng tạo của mình. Là Lữ Mai mà không thể là ai khác./.