Văn hóa – Di sản

Từ Diễn Đồng – gương mặt tiêu biểu của thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX

Lê Văn Tấn - Nguyễn Thị Hưởng 16/11/2023 15:53

Từ Diễn Đồng (1866 - 1922) có quê gốc ở làng Hà Hồi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Ông đỗ Tú tài khoá thi năm 1906 nên thường gọi là Tú Đồng. Ông là người cùng thời với nhà thơ Tú Xương (1870 - 1907). Theo truyện kể thì Từ Diễn Đồng từ khi chưa đỗ Tú tài, còn gọi là anh khoa Đồng, đã thường đi lại và xướng họa thơ văn với Tú Xương. Đến khi nhà thơ Tú Xương đã mất, Từ Diễn Đồng vẫn còn qua lại thăm hỏi nhiều lần. Điều đó cho thấy tình bạn giữa hai nhà thơ và ảnh hưởng về tư tưởng và thơ văn giữa họ.

Từ Diễn Đồng là người không cộng tác với chính quyền thực dân vì ông rất ghét Tây và những kẻ bợ đỡ Tây. Ông từng đi dạy học ở nhiều nơi thuộc huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Có một thời gian ông dạy học ở dinh Tuần phủ tỉnh Hà Nam. Cuối đời ông trở về làng Hà Hồi mở lớp dạy chữ Hán tại văn chỉ của làng. Ông vừa dạy học vừa sáng tác thơ văn đả kích bọn thực dân phong kiến, bộc bạch tâm sự yêu nước của một người dân mất nước. Ông mất tại quê nhà năm 1922, thọ 56 tuổi.

Từ Diễn Đồng được biết đến như một nhân cách có lối sống thanh cao, không màng danh lợi trước thời buổi nhiễu nhương của xã hội đương thời. Thái độ bất hợp tác với Tây cho thấy một sự khẳng khái và bản lĩnh của kẻ sĩ trong thời loạn. Dành phần lớn tâm sức và tài năng của mình vào công việc dạy học và bốc thuốc, Từ Diễn Đồng dạy học ở đâu đều được nhân dân và học trò yêu quý, mến mộ và kính phục. Ông không chỉ dạy cho học trò chữ nghĩa kinh sách mà còn dạy họ đạo lý hằng thường, thực tế trong đời sống và sinh hoạt. Dạy học ở đâu, ông thích nghi rất nhanh với hoàn cảnh sống của người dân nơi đó. Nhân dân đương thời còn lưu giữ mãi về hình ảnh một người thầy giáo không chỉ nghiêm nghị và tâm huyết trên lớp học mà còn “ba cùng” với học trò và bà con nơi ông dạy học. Sử sách không thấy có ghi chép lại về những người học trò đỗ đạt đã từng được Từ Diễn Đồng dạy dỗ; song có lẽ một nội dung quan trọng trong “giáo án” lên lớp của ông đối với học trò chính là tinh thần căm thù giặc ngoại xâm và lòng yêu nước, yêu Tổ quốc tha thiết. Vô số những người học trò bình thường của ông đã đứng lên trong hàng ngũ của khối đoàn kết dân tộc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp chung của đất nước. Công lao của Từ Diễn Đồng ở đây quả là không nhỏ.

Từ Diễn Đồng còn có những đóng góp đáng quý trên phương diện văn học. Tác phẩm còn lại của ông có trên mười bài thơ Nôm và một vở tuồng về Nguyễn Trãi.

Thơ của Từ Diễn Đồng gồm những bài lẻ, in rải rác đây đó, hoặc qua truyền miệng, chưa đủ thành tập. Một nội dung quan trọng trong thơ ông chính là nỗi niềm day dứt về nỗi tồn vong của đất nước:

Nước non chênh lệch bởi vì đâu?

Kê lại cho cân quả địa cầu.

Giọt máu Hồng Bàng dây đến tớ,

Màu da Hoàng chủng giữ cùng nhau.

Hơn hai mươi triệu người không ít,

Ngót bốn nghìn năm nước đã lâu.

Có lẽ cam lòng nô lệ mãi,

Đua nhau gắng gỏi với năm châu.

(Nước non)

Những lời thơ tha thiết như thế về non nước, về tinh thần tự tôn dân tộc, về niềm tự hào con Lạc cháu Rồng đã có giá trị thức tỉnh và cổ vũ thiết thực cho phong trào yêu nước của quần chúng nhân dân đương thời. Hiện lên trong thơ văn ông là hình tượng của một kẻ sĩ “không ngủ suốt năm canh” vì trở trăn cho tương lai đất nước và hạnh phúc nhân dân: Năm canh thức suốt cả năm canh/ Nghĩ chuyện xa xa giật nảy mình (Không ngủ). Tâm trạng ấy khiến cho nhà thơ thấy đêm như dài ra mãi, ông nóng lòng sốt ruột cho trời mau sáng để có thể làm việc gì đó có ích cho nước, cho dân:

Đêm sao đêm mãi tối mò mò,

Đêm đến bao giờ mới sáng cho?

Đàn trẻ u ơ chừng muốn dậy,

Ông già thúng thắng vẫn đương ho.

Ngọn đèn giữ trộm khêu còn bé,

Tiếng chó nghi người cắn vẫn to.

Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa?

Dậy thời lên tiếng gọi nhà Nho!

(Đêm dài)

Phải chăng hình tượng “đêm dài” trong bài thơ còn mang một ý nghĩa ẩn dụ: sự áp bức bóc lột của thực dân. Nhân dân chưa có “ngày mai”, chưa có ánh sáng tự do và hạnh phúc. Qua đây, người đọc thêm một lần nữa được chia sẻ với cảm xúc của ông.

Nhân vụ vỡ đê năm Quý Sửu (1913), ông cũng lồng tình cảm mất nước với tình cảnh nước lụt để cảnh báo quốc dân: Người mình nào có biết chi đâu/ Nước vỡ nhà trôi cũng đã lâu (Nước lụt). Từ đó ông đặt ra một câu hỏi đầy day dứt về một nghịch cảnh đầy oái oăm:

Ở đây nhà Lý đóng đô đây,

Trải mấy nghìn năm mới đến nay.

Năm cửa chỉ còn lầu cửa Bắc,

Cột cờ sao thấy lá cờ Tây.

Nền văn nhà Lý xây kia đó,

Vết kiếm vua Lê vứt chỗ này.

Người cũ bây giờ đâu cả nhi?

Xe rồng chẳng thấy, thấy xe tay.

(Thăng Long thành hoài cổ)

Bài thơ là đóng góp quý giá của Từ Diễn Đồng về đề tài Thăng Long - Hà Nội. Dù ít ỏi nhưng người đọc cũng có thể hình dung được một Thăng Long - Hà Nội trong buổi tao loạn, nhố nhăng những năm đầu thế kỷ XX.

Từ Diễn Đồng còn được nhiều người biết đến qua những bài thơ Nôm Đường luật pha ý vị trào phúng. Cho đến nay, người đọc vẫn còn thuộc một số bài chưa hề in thành sách của ông như: Mặt trời đã xế quãng đường xa/ Đi mãi loanh quanh chẳng thấy nhà (Lạc đường), hay:

Từ khi chưa vợ nhớ chùa Thầy,

Đầu bạc bây giờ mới tới đây.

Cửa Phật khéo tô người một họ,

Chợ Trời sao cắm biển ông Tây.

(Chơi chùa Thầy)

Ông còn có bài Ngũ thập tự thọ với những câu thơ thể hiện giọng điệu và thái độ bực bội, cười gần: Nước loạn, nhà nghèo, mình lại hèn/ Dẫu sống trăm năm chẳng ra cóc...

Từ Diễn Đồng còn là tác giả vở tuồng Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi qua bến Chương Dương: Kìa ai bắt giặc bên sông/ Kìa ai cướp giáo lập công chốn này/ Anh hùng lúc đã ra tay/ Đời xưa đã vậy, đời nay thế nào?... Với vở tuồng này, Từ Diễn Đồng tỏ ra là người vẫn chưa hết hy vọng ở tương lai đất nước: Tối lâu lâu, cũng sáng ra dần...

Đặt trong mạch thơ văn yêu nước chống thực dân Pháp hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Từ Diễn Đồng được đánh giá là một cây bút xuất sắc. Nhà thơ Trần Lê Văn trong Danh nhân quê hương, Tập III (1976) từng đánh giá về ông như sau: “Cũng như Tú Xương - bạn của ông - và nhiều nhà thơ khác hồi ấy, ông thường dùng cái cười làm vũ khí. Cái cười của ông có khi vang lên đanh và sắc, có khi trầm xuống, lẫn với một tiếng nghiến răng căm giận trong tình hình giặc ngoài thù trong đè nặng lên vận mệnh đất nước. Thơ Từ Diễn Đồng sử dụng rất sành ngôn ngữ dân tộc như các nhà thơ ưu tú khác. Thơ ông lại rất “thời sự”, rất hiện đại, so với lúc ấy, và đặc biệt là rất dân gian. Riêng vở tuồng Nguyễn Trãi cũng xứng đáng một công trình nghiên cứu riêng”... Mặc dù trước tác của Từ Diễn Đồng còn lại không nhiều nhưng chỉ từng ấy cũng đủ để ghi danh một tên tuổi đáng được kính trọng về tâm huyết và tài năng trên thi đàn văn học đầu thế kỷ XX của dân tộc./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
  • Trần Khánh Dư – danh tướng thủy binh
    Trần Khánh Dư người huyện Chí Linh (Hải Dương), chưa rõ năm sinh, mất năm 1339, dòng dõi tôn thất nên được phong tước Nhân Huệ vương. Khi quân Nguyên mới sang xâm lược nước ta, ông thường nhằm chỗ sơ hở đánh úp, Trần Thánh Tông khen là có chí lược, lập làm thiên tử nghĩa nam (con nuôi vua). Khi đánh dẹp ở miền núi thắng lớn, được phong chức Phiêu kỵ đại tướng quân. Rồi từ tước hầu, do được vua yêu, thăng mãi lên Thượng vị hầu áo tía, giữ chức phán thủ. Sau vì tư thông với công chúa Thiên Thụy, con dâu của Trần Quốc Tuấn nên bị cách hết quan tước, tịch thu sản nghiệp, phải lui về ở Chí Linh làm nghề bán than.
(0) Bình luận
  • Liên hoan Ca trù Hà Nội 2025: Lan tỏa và phát huy giá trị di sản nghệ thuật độc đáo
    Tiếp nối thành công của Liên hoan Tài năng trẻ ca trù Hà Nội năm 2016, năm 2019 và năm 2022, sáng 27/9, tại Bảo tàng Hà Nội, Sở Văn hóa và Thể thao tổ chức khai mạc Liên hoan Ca trù Hà Nội lần thứ Tư - năm 2025.
  • Địa điểm đặt hòm phiếu cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội được xếp hạng Di tích lịch sử TP Huế
    Đình làng Vạn Xuân - Địa điểm đặt hòm phiếu cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xếp hạng Di tích lịch sử TP Huế.
  • Nhà thờ họ Giang Nguyên ở làng Triều Khúc
    Làng Triều Khúc (nay thuộc phường Thanh Liệt, Hà Nội) xưa có tên là Trang Khúc Giang. Một thời làng có tên gọi là Đơ Đồng, rồi khi có nghề dệt Thao gọi là làng Đơ Thao. Dòng họ Giang Nguyên ở Triều Khúc là một họ đặc biệt, chỉ tồn tại duy nhất tại vùng đất này. Theo gia phả, họ Giang Nguyên đến định cư tại Triều Khúc từ thế kỷ thứ VI, thời kỳ nội thuộc nhà Đường. Khi ấy, cùng với các họ Triệu, Bùi, Hoàng và Nguyễn, họ Giang là một trong năm dòng họ đầu tiên đến lập ấp ở khu vực giếng Liên (nay là khuôn viên Học viện An ninh Nhân dân).
  • Tục kiêng kỵ ở đình Hà Vỹ
    Đình Hà Vỹ thuộc thôn Giao Tác, xã Thư Lâm, TP. Hà Nội, tên cổ là đình Quậy (hay Quẫy). Theo truyền thuyết, khi An Dương Vương dời đô từ Bạch Hạc (Việt Trì) xuống đã chọn vùng đất Cổ Loa để định đô. Dân cư tại đây được lệnh di dời để lấy đất xây thành. Tuy không muốn rời đi, nhưng dân phải tuân theo phép nước nên xin được chuyển đến khu đất trũng phía ngoài.
  • Xếp hạng 4 di tích quốc gia đặc biệt
    Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính vừa ký Quyết định số 1959/QĐ-TTg ngày 11/9/2025 về việc xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 18, năm 2025) đối với 4 di tích.
  • Bộ VHTTDL xếp hạng thêm 15 di tích, danh thắng cấp quốc gia
    Bộ VHTTDL vừa ban hành các Quyết định xếp hạng thêm 15 di tích, danh lam thắng cảnh quốc gia.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Một dòng họ tài danh phát tích từ Lương Xá
    Nhà bác học Phan Huy Chú đã viết: “Ở làng Lương Xá nhà dòng dõi làm tướng, đời đời làm quan… Họ Đặng, từ Nghĩa Quốc công Đặng Huấn là công thần thời Lê Trung Hưng, có con gái lấy An vương Trịnh Tùng, sinh Văn tổ Trịnh Tráng. Về sau con cái đời đời vẻ vang, được phong Quận công, lấy Công chúa và làm chức Trấn thủ hơn 200 năm giàu sang mãi mãi…”.
  • Chùm thơ của tác giả Nguyễn Đăng Tấn
    Tạp chí Người Hà Nội xin trân trọng giới thiệu chùm thơ của tác giả Nguyễn Đăng Tấn.
  • Xuyên qua giấc mơ từ điểm tựa ký ức
    Đất nước, Dân tộc, Nhân dân, Thời đại là những đại tự sự, thường là đối tượng trữ tình trong trường ca. Với “Xuyên qua giấc mơ” (Nxb Hội Nhà văn, 2025), Trần Ngọc Mỹ đã đưa hình ảnh đất nước trong quá khứ và hiện tại vào trang viết với tất cả xúc cảm mãnh liệt, chân thành. Trường ca gồm 6 chương: Lời ký ức, Ý nghĩ, Trên đường, Thời chúng ta sống, Những cuộc gặp gỡ và Tỉnh giấc. Xuyên suốt tác phẩm, chủ thể trữ tình hiện diện ở vị thế người con để nhìn về quá khứ và hiện tại của đất nước qua đối thoại với bố và đặc biệt là với mẹ. Nhân vật trong trường ca thường là người anh hùng hay là người có tầm vóc lịch sử nhưng nhân vật trong trường ca của Trần Ngọc Mỹ là con người bình thường. Đó là nhân vật con, tiêu biểu cho thế hệ trẻ mang nhiều trăn trở, khát vọng về cuộc sống...
  • Hà Nội tăng hỗ trợ lãi suất vay vốn đầu tư xe buýt điện, năng lượng xanh
    HĐND TP Hà Nội vừa thông qua nghị quyết sửa đổi, nâng mức hỗ trợ lãi vay lên 70%, kéo dài tối đa 10 năm, mở đường cho vận tải công cộng xanh.
  • HĐND TP. Hà Nội thông qua Đề án thành lập Sàn Giao dịch công nghệ Hà Nội
    Sàn Giao dịch công nghệ Hà Nội hoạt động theo mô hình “Đầu tư công, quản trị tư”, đó là Nhà nước đầu tư hạ tầng và tổ chức Hợp đồng thuê thầu, tuyển chọn doanh nghiệp vận hành khai thác và cung ứng dịch vụ (Hợp đồng O&M).
Đừng bỏ lỡ
Từ Diễn Đồng – gương mặt tiêu biểu của thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO