Trần Khánh Dư – danh tướng thủy binh
Trần Khánh Dư người huyện Chí Linh (Hải Dương), chưa rõ năm sinh, mất năm 1339, dòng dõi tôn thất nên được phong tước Nhân Huệ vương. Khi quân Nguyên mới sang xâm lược nước ta, ông thường nhằm chỗ sơ hở đánh úp, Trần Thánh Tông khen là có chí lược, lập làm thiên tử nghĩa nam (con nuôi vua). Khi đánh dẹp ở miền núi thắng lớn, được phong chức Phiêu kỵ đại tướng quân. Rồi từ tước hầu, do được vua yêu, thăng mãi lên Thượng vị hầu áo tía, giữ chức phán thủ. Sau vì tư thông với công chúa Thiên Thụy, con dâu của Trần Quốc Tuấn nên bị cách hết quan tước, tịch thu sản nghiệp, phải lui về ở Chí Linh làm nghề bán than.
Vào một ngày mùa đông tháng mười năm Nhâm Ngọ (1282), nhà vua ra Bình Than họp các vương hầu cùng trăm quan bàn kế sách đánh giặc, thấy một chiếc thuyền lớn chở than gỗ, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn đang vất vả trong cơn gió mạnh lúc nước triều xuống. Vua chỉ mà bảo quan thị thần rằng: “Người kia có phải là Nhân Huệ vương không?”, rồi lập tức sai người đuổi theo.
- Ông lái kia, vua sai đòi nhà ngươi!
Ông già là người buôn bán, có việc gì mà gọi đến - Khánh Dư nói.
Người quân hiệu trở về tâu thực như thế, vua nói: “Đúng là Nhân Huệ vương rồi, nếu là người thường tất không dám nói thế”, lại sai nội thị đi gọi, Khánh Dư đến nơi, ăn mặc như thường dân, nhà vua cảm động nói: “Nam nhi cực khổ đến thế là cùng”, rồi xuống chiếu tha tội, ban cho áo ngự, vị thứ ngồi dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc đánh giặc. Ông có nhiều kế hay, lại được làm phó tướng. Tháng 12-1287, quân Nguyên chia thành ba đạo tiến đánh nước ta. Đạo quan chủ lực do Thoát Hoan chỉ huy tiến vào vùng Lạng Sơn. Đạo quân từ Vân Nam theo đường sông Hồng tiến sang do Ái Lỗ chỉ huy. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp thống lĩnh thủy binh từ Quảng Đông vượt biển tiến về phía cửa sông Bạch Đằng.
Thủy binh ta do Phó tướng Trần Khánh Dư chỉ huy, chặn đánh ở một số nơi, không cản được giặc phải rút lui. Thượng hoàng nghe tin, sai bắt Khánh Dư về kinh xử tội. Ông bảo với sứ rằng: “Lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày, để tôi lập công chuộc tội, rồi sẽ chịu búa rìu cũng chưa muộn”... Ông đoán biết thuyền quân đi rồi, thuyền lương tất theo sau nên thu nhặt số quân còn lại, đợi đánh. Quả nhiên mấy ngày sau, Trương Văn Hổ dẫn hơn 100 thuyền chở lương, không có chiến thuyền yểm hộ, kéo nhau đến Vân Đồn, bị Trần Khánh Dư đánh bất ngờ, tan tác. Trương Văn Hổ chạy thoát thân, lương thực, quân trang, vũ khí của địch một phần chìm sâu xuống đáy biển, một phần lọt vào tay quân ta. Chiến công vang dội này đã làm thất bại ngay từ đầu kế hoạch hậu cần của địch, dồn chúng vào những khó khăn không thể khắc phục được đối với những đạo quân lớn từ xa kéo đến nơi đất lạ này.
Khi Hưng Đạo vương làm sách Vạn kiếp tông bí truyền thư, ông đã viết lời tựa rằng: “Phàm người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết!”. Ông khuyên người dùng sách “Nên bỏ bớt chỗ rườm, lược lấy chất thực, rồi lấy năm hành cảm ứng với nhau, chín cung cân nhắc với nhau, cương và nhu phối hợp với nhau, chẵn và lẻ quanh vòng với nhau, không lẫn âm với dương, thần với sát, phương lợi sao tốt, thần hung tướng ác, ba cát năm hung, đều rõ rệt cả, thêm bớt ba đời, thắng cả trăm trận”...
Trong số những quý tộc nhà Trần, Khánh Dư là người không chỉ giỏi võ nghệ, lắm mưu lược, lập công lớn về quân sự mà ông còn có đầu óc thực tiễn, biết kinh doanh thương mại, một biểu hiện mới trong tầng lớp quan liêu phong kiến vốn chỉ quen sống bám vào đặc quyền đặc lợi của mình. Tác giả các bộ sử cũ với quan điểm kinh tế truyền thống của phong kiến là trọng nghề gốc (làm ruộng), khinh nghề ngọn (buôn bán) nên chê việc ông buôn than, buôn nón là hèn mọn; nhưng thực ra ở thời Trần chưa hề có chính sách trọng nông ức thương, chưa có việc bao vây cấm đoán ngoại thương./.
Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội