Lý luận - phê bình

Trang phục truyền thống nhìn từ phim Áo lụa Hà Đông và Cô Ba Sài Gòn

Phạm Thị Hường 07:30 17/04/2023

Trong điện ảnh, ngoài kỹ thuật, nội dung… thì trang phục là một yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm. Điện ảnh Việt Nam cũng không ngoại lệ, và trang phục truyền thống là điểm sáng để khán giả dễ bề theo dõi dấu ấn bối cảnh lịch sử xã hội, hơi thở thời đại mà bộ phim muốn truyền tải.

cover-1.jpg

Giá trị nghệ thuật trong trang phục truyền thống

Trong lịch sử phát triển của mỗi nền văn hóa dân tộc, trang phục truyền thống vừa là sản phẩm sáng tạo của dân tộc từ quá khứ tới hiện tại, vừa là một trong các giá trị được lưu giữ, truyền bá và góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Trang phục truyền thống trong điện ảnh là vấn đề cần được quan tâm hơn nữa vì thời gian gần đây, từ trong sinh hoạt xã hội đến các hoạt động nghệ thuật, từ sự du nhập của một số kiểu trang phục từ nước ngoài mà một số sản phẩm may mặc ở trong nước đã nhân danh “hiện đại”, xem nhẹ yếu tố bản sắc. Trên thực tế, tình trạng này đang có xu hướng tràn lan từ thành thị tới nông thôn, cho nên từng có ý kiến cho rằng, chúng ta đang đứng trước nguy cơ mai một bản sắc trong trang phục.

2(1).jpg
Áo dài trong phim “Cô Ba Sài Gòn”

Trước hết, trang phục truyền thống không chỉ là vật dụng để bảo vệ cơ thể, thích nghi với tự nhiên (như chống rét hay chống nóng) mà với quá trình phát triển, nó còn là phương tiện phản ánh thẩm mỹ, văn hóa; phản ánh xu hướng, khả năng sáng tạo của cá nhân cũng như cộng đồng. Ðối với một số dân tộc, trang phục truyền thống còn chuyển tải cả quan niệm về vũ trụ, nhân sinh quan của cộng đồng văn hóa trong quá khứ thông qua màu sắc, hoa văn, họa tiết được dệt hay thêu trên váy và áo. Một số trang phục còn đi kèm với dấu hiệu phân biệt thứ bậc xã hội của từng người... Chính vì tính phức hợp về giá trị, vì nét riêng độc đáo về văn hóa mà trang phục truyền thống đã trở thành loại sản phẩm luôn được coi là niềm tự hào của văn hóa mỗi dân tộc. Khi cá nhân mặc trên người bộ trang phục dân tộc cũng là khi mỗi người tự ý thức về bản sắc của nền văn hóa đã làm nên tư cách và diện mạo văn hóa của mình.

Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, trong một số trường hợp, trang phục truyền thống có ý nghĩa cổ truyền bao giờ cũng là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử nhất định, phù hợp điều kiện của thời kỳ lịch sử đó. Khi điều kiện lịch sử, quan niệm thẩm mỹ, chất liệu may mặc, môi trường giao lưu, học hỏi hay thao tác lao động đã thay đổi, thì trang phục cũng cần phải phát triển sao cho phù hợp bối cảnh mới, và việc làm này có quan hệ mật thiết với khả năng sáng tạo trên cơ sở truyền thống của con người. Ðồng thời, không thể biến trang phục truyền thống thành sự phô diễn hình thức, và người mặc trang phục truyền thống thiếu hụt tinh thần, ý thức đối với bản sắc văn hóa dân tộc. Vì thế, để việc giữ gìn, phát triển bản sắc trong trang phục của dân tộc trở thành ý thức văn hóa chung, chúng ta cần chú ý tới vai trò, tác động của hệ thống giáo dục phổ thông, các phương tiện quảng bá văn hóa, các cơ sở may mặc…

1(1).jpg
Cảnh trong phim “Áo lụa Hà Đông”

Cái Đẹp trong nghệ thuật là sự hòa quyện đến mức gần như tuyệt đối của chỉnh thể tinh thần Chân - Thiện - Mỹ, của tình cảm - trí tuệ - khát vọng và ý chí con người. Cái Đẹp truyền thống là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen lối sống và cách ứng xử của cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài. Và cái Đẹp trong trang phục truyền thống là giá trị nghệ thuật có tính lịch sử, đã được lưu giữ và kiểm chứng qua thời gian, đã tồn tại và phát triển theo dòng thời gian.
Nghệ thuật nói chung và điện ảnh nói riêng đóng vai trò quan trọng trong quá trình giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa thông qua trang phục truyền thống. Và tương hỗ, vẻ đẹp của trang phục truyền thống làm tăng hiệu quả nghệ thuật trong điện ảnh.

Trang phục truyền thống phản ảnh nhân vật trong “Áo lụa Hà Đông” và “Cô Ba Sài Gòn”

Những năm gần đây, điện ảnh Việt đã ghi lại dấu ấn với khán giả thông qua các tác phẩm khai thác đời sống và văn hóa trang phục dân tộc trong các giai đoạn lịch sử khác nhau như “Lều chõng”, “Long Thành cầm giả ca”, “Áo lụa Hà Đông”, “Cô Ba Sài Gòn”, “Lý áo dài”... Những bộ phim đã thu hút hàng triệu lượt khán giả trong và ngoài nước quan tâm, trên một góc độ nào đó, chính điện ảnh đã đưa áo dài Việt đến với cả thế giới và góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nên hình ảnh tuyệt đẹp về bộ quốc phục của phụ nữ Việt Nam. Và ở chiều ngược lại, áo dài đã làm cho điện ảnh thêm mềm mại, quyến rũ và mang đậm bản sắc độc đáo, riêng có.

uryecnirkldcsp7s7wdry2xjtgumz1ujeaqkgr0l_680.jpg

Đó là chiếc áo dài trắng trong phim “Áo lụa Hà Đông”. Chiếc áo dài đã quấn lấy cơ thể non nớt của bé trai bất hạnh, vừa chào đời đã bị bỏ rơi nơi vệ đường. Đó cũng là vật có giá duy nhất mà đứa con trai tên Gù bị bỏ rơi ấy có được. Để rồi đó lại là chiếc áo mà Gù dùng làm vật đính ước, chiếc áo dài cưới với Dần… Cái nghèo vì chiến tranh đã buộc Dần phải hi sinh chiếc áo dài cưới - kỷ vật duy nhất, món quà lãng mạn nhất trong cuộc đời lắm gian truân - để sửa thành chiếc áo dài học trò cho hai cô con gái An, Ngô thay phiên nhau mặc đến trường... Chiếc áo dài là vật cưu mang của cha, là kỷ niệm tình yêu đầu đời của mẹ và là niềm hạnh phúc khi được đến trường của những cô con gái.

Bộ phim không chỉ diễn tả cuộc sống nghèo khó của gia đình anh Gù vào năm 1954 khi thực dân Pháp đang đàn áp miền Bắc Việt Nam mà còn cài cắm ý đồ nghệ thuật thông qua chiếc áo dài trắng. Đó dường như là nguồn sáng le lói duy nhất còn lại trong một gia đình thiếu trước hụt sau, trong đó chứa đựng linh hồn của cả gia đình và cũng mang trong mình hình tượng của người phụ nữ Việt Nam - mỏng manh nhưng không hề yếu đuối. Những điều này kết tinh lại thành bài văn đầy cảm xúc của An trong tiết học cuối cùng, bài văn vẫn còn dang dở và bao đau thương, mất mát về sau vì chiến tranh. Hình ảnh chiếc áo dài trắng mang ý nghĩa biểu tượng rất lớn trong “Áo lụa Hà Đông” đã khiến khán giả có nhiều cung bậc cảm xúc khi xem phim.

Theo dòng chảy thời gian về chiếc áo dài của những năm 1945 trong phim, “Áo lụa Hà Đông” lại đưa ta đến chiếc áo dài của những năm 1960 trong phim “Cô Ba Sài Gòn”. Ở “Cô Ba Sài Gòn”, áo dài là trang phục xuất hiện nhiều nhất trong phim và cũng tốn nhiều thời gian thực hiện nhất. Theo chia sẻ của nhà sản xuất thì họ đã phải tìm đến các thợ lành nghề, truyền nhân nghề may áo dài Sài Gòn xưa để xin tư vấn. Ngoài ra, họ cũng tham khảo ý kiến của những chuyên gia về áo dài như nhà thiết kế Sĩ Hoàng. “Khán giả bây giờ rất tinh ý. Nếu mình làm không đến nơi đến chốn, không đúng tinh thần của áo dài năm 1960 - một trong các bối cảnh phim, người xem sẽ nhận ra ngay”, nhà thiết kế cho biết. Đoàn phim đã góp nhặt từ các thợ may lành nghề nhiều năm và các bước cho ra đời tà áo dài truyền thống gồm: đo, cắt, ráp, luồn vải, kết nút và ủi. Hay bí quyết để may áo đẹp của nhân vật bà Thanh Mai - chủ tiệm may Thanh Nữ do Ngô Thanh Vân thể hiện: “Vải có hoa văn thì phải canh chỉ cho đối xứng tà trước, tà sau. Nút muốn kết cho đẹp thì sợi chỉ phải trải đều, không được dồn cục, chiếc áo may ra mới có thể sắc sảo được”.

Thông điệp mà “Cô Ba Sài Gòn” tạo ra là tôn vinh tà áo dài truyền thống qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử. Yếu tố hiện đại và truyền thống được đan xen nhịp nhàng bằng một ngôn ngữ bình dị, làm nên linh hồn của phim thời trang và văn hóa. Bên cạnh đó, phim góp phần vào lời giải đáp cho câu hỏi: “Phải làm mới áo dài như thế nào?“ vốn gây tranh cãi trong nhiều năm qua. Không chỉ áo dài, trang phục kiểu Tây của Ninh Dương Lan Ngọc và các diễn viên ở bối cảnh xưa cũng được đầu tư. Các bộ Âu phục đơn giản hơn nên có thể may sẵn trước đó vài tháng. Những chất liệu như phi lụa, phi dẻo, organza, gấm, nhung, satin... dễ tìm vì vẫn còn thịnh hành đến thời này. Mẫu đầm suông cùng những đường kẻ ô vuông màu sắc của nhân vật Như Ý (Lan Ngọc thủ vai) khiến người xem nhớ đến bộ sưu tập năm 1966 của Yves Saint Laurent mang tên Riant Monde. Những xu hướng thời trang của năm 1960 như Swing London, hippie... cũng được tái hiện với họa tiết chấm bi hay phụ kiện đi kèm váy áo có kính mắt mèo, băng đô, mũ rộng vành, giày mũi nhọn đế thấp... Khâu tìm phụ kiện là thử thách với ekip. Bên cạnh những phụ kiện phổ biến dành cho nữ giới thời xưa như ngọc trai, mã não, xắc tay... nhiều món đồ được “săn lùng” và góp nhặt nhiều ngày từ những cửa hàng bán đồ cũ ở Sài Gòn như kính mắt mèo của nhân vật Thanh Mai.

Nhiều trang phục trong phim gợi những chi tiết hoài cổ. Họa tiết gạch bông đặc trưng trong kiến trúc Đông Dương một thời vang bóng từ những vật dụng đơn giản nhất từ bình hoa, gạch lát, bảng hiệu quảng cáo đã trở thành cảm hứng thiết kế váy áo cho nhân vật Như Ý, hay những đường ghép theo phong cách pop-art, xu hướng thịnh thành của thời trang thế giới vào những năm 1960. Bộ sưu tập này cũng từng lên sàn diễn Vietnam International Fashion Week trước khi phim ra mắt, với sự trở lại của Ngô Thanh Vân trong vai trò mở màn.

Nhìn rộng ra bên ngoài, chúng ta cũng thấy rất rõ một số quốc gia có nền công nghiệp văn hóa phát triển đã xây dựng hẳn những chiến lược dùng điện ảnh để phát triển kinh tế và quảng bá về đất nước, văn hóa của mình, tiêu biểu như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc. Có thể nói điện ảnh của Hàn Quốc đã khiến cả thế giới biết đến vẻ đẹp và văn hóa đặc sắc của một quốc gia ở Đông Á, gắn liền với thương hiệu của ẩm thực (kim chi) và trang phục truyền thống (hanbok). Kinh nghiệm của điện ảnh Hàn Quốc sẽ rất hữu ích cho điện ảnh Việt Nam, nhất là khi chúng ta đang đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa và xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi vậy mà các đơn vị gần đây đã xây dựng một số bộ phim lấy chủ đề về áo dài để tham gia Liên hoan phim Việt Nam lần thứ XXII như “Đại thi hào Nguyễn Du”, “Trong bóng áo dài”, “Vũ khúc Phượng hoàng”, “Xứ Huế và áo dài”... Như vậy, áo dài sẽ song hành cùng điện ảnh và nhờ điện ảnh để quảng bá về lối sống, con người cùng nét đẹp về văn hóa trang phục của cố đô. Đây chắc chắn là một cách làm hay, mang lại hiệu quả cao.

Với lịch sử phát triển qua thời gian dài như vậy, chiếc áo dài Việt Nam đã hoàn thiện hơn bao giờ hết. Áo dài trở thành biểu tượng của nền văn hóa, tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt. Có thể nói, áo dài không chỉ là một bộ trang phục đại diện cho cả một nền văn hóa, mà còn là cảm hứng sáng tác không dứt của nghệ thuật Việt Nam.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • “Bóng của hoa” trên những trang thơ trữ tình đậm chất Hà Nội
    Sau hai tập thơ “Lửa lá” (2009) và “Vườn tôi nở đóa vàng bông” (2013), nhà thơ Đặng Minh Kính - hội viên Hội Nhà văn Hà Nội vừa ra mắt bạn đọc tập thơ “Bóng của hoa” (NXB Hội Nhà văn, 2024). Tôi cứ ngỡ rằng, trên những trang thơ trữ tình giàu cảm xúc tinh tế của nữ tính, đậm chất Hà Nội nơi chị đang chập chờn, ẩn hiện những “Bóng của hoa” đầy thi vị với những suy tưởng khá lắng đọng.
  • Một phác thảo toàn diện về Hà Nội thời cận đại
    Quá trình biến đổi Hà Nội từ khu nhượng địa trở thành một thành phố hiện đại kiểu phương Tây, một “Paris thu nhỏ” của chính quyền thực dân vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã được nhà nghiên cứu Đào Thị Diến phản ánh chi tiết trong cuốn sách “Hà Nội thời cận đại - từ nhượng địa đến thành phố (1873 - 1945)”. Với nguồn tư liệu quý từ hồ sơ lưu trữ, cuốn sách không chỉ phác thảo toàn diện về Hà Nội thời cận đại mà còn góp phần giải mã sự thật lịch sử.
  • Một số gợi mở trong thẩm định thơ
    Nhìn chung đánh giá về việc đọc sách văn học của công chúng, có thể theo nhiều khía cạnh, đồng sáng tạo, kích thích người viết sáng tác, bồi bổ thẩm mĩ, tích lũy tri thức, phát triển đời sống văn hóa… với những hiệu quả tích cực. Nhưng còn có những tồn tại theo chiều hướng ngược lại, mang tính nguy cơ hơn là cơ hội tốt, phản ánh sự trì trệ hơn là phát triển. Đó là sự dễ dãi trong việc đọc, thẩm định thơ từ cả người đọc lẫn người sáng tác, truyền tải.
  • Chi tiết trong sáng tạo của nhà văn
    Chúng ta đều từng quen câu nói của văn hào Nga Macxim Gorki: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả vậy! Chi tiết trong văn xuôi chỉ là một thứ nhỏ, rất nhỏ so với cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật,…
  • Vũ Quần Phương với thơ hay
    Quan sát các nhà thơ viết phê bình tôi thấy rằng vì có sáng tác, nên phê bình của họ thường giàu cảm xúc, thuyết phục bạn đọc bởi sự tinh tế, thành thục của người có nghề, cùng làm nghề với tác giả được bình. Mặt khác, là người cũng từng thai nghén, mang nặng đẻ đau tác phẩm, nên nhà thơ bình thơ thường có sự cảm thông, trân trọng và sẻ chia. Các nhà thơ bình thơ thành công trước đây phải kể đến Xuân Diệu, Chế Lan Viên. Lớp kế tiếp có Vũ Quần Phương, Nguyễn Trọng Tạo, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hoàng Sơn...
  • Văn nghệ sĩ trong Hà Nội tạm chiếm
    Sống trong Hà Nội tạm chiếm những năm 1947-1954, đời sống văn nghệ sĩ hết sức khó khăn. Nguyễn Minh Lang, Hoài Việt, Minh Tân, Thùy Linh, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Tô Kiều Ngân, Thy Ngọc... đều sống bằng nghề dạy học ở trường tư. Nhà thơ Giang Quân trông nom một hiệu sách mang tên Quốc Việt ở 274 phố Khâm Thiên.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • [Podcast] Bánh tẻ Cầu Liêu – Món ăn thấm hồn quê của làng Thạch xá
    Vùng đất xứ Đoài không chỉ nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh, mà còn có nhiều món ăn ngon, trở thành nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của xứ Đoài, trong đó có món Bánh tẻ. Bánh tẻ xuất hiện sớm tại 2 địa danh của vùng xứ Đoài xưa là Cầu Liêu (Thạch Thất) và Phú Nhi (Sơn Tây). Nếu như bánh tẻ Phú Nhi được gói bằng lá dong, lá chuối như nhiều loại bánh tẻ khác thì bánh tẻ Cầu Liêu so với những nơi khác là bánh được gói bằng loại lá đặc biệt – lá tre mai.
  • Bản hòa ca Hà Nội qua tranh vẽ
    70 tác phẩm đa dạng về chất liệu từ màu nước, ký họa, lụa, sáp dầu... với chủ đề về Hà Nội sẽ được giới thiệu tới công chúng tại Trung tâm thông tin triển lãm 93 Đinh Tiên Hoàng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội từ 20/11 đến 28/11/2024.
  • Khai mạc triển lãm ảnh “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”
    Chiều 18/11, tại Trung tâm Giám định và Triển lãm tác phẩm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh (số 29 Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức khai mạc triển lãm ảnh “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”.
  • Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Mường được công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia
    Việc công nhận “Nghề dệt thổ cẩm của đồng bào dân tộc Mường xã Kim Thượng, xã Xuân Đài” là Di sản văn hóa phi vật thể cũng đánh dấu hướng phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa đặc trưng ở Phú Thọ.
  • Trưng bày chuyên đề “Hoàng đế Lê Thái Tổ - Người khai sáng vương triều Hậu Lê”
    Chào mừng Ngày Di sản Văn hoá Việt Nam (23/11/2005 - 23/11/2024), sáng 18/11, Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, Ban Quản lý Di tích danh thắng Hà Nội tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề: “Hoàng đế Lê Thái Tổ - Người khai sáng vương triều Hậu Lê”. Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ Nguyễn Văn Phong tới dự.
  • Khám phá Hà Nội qua triển lãm "Mười Bốn Art Show 2024"
    Triển lãm “Mười Bốn Art Show 2024” đang diễn ra tại không gian Aqua Art - Hanoi Aqua Central 44 Yên Phụ, Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội.
  • Hang xóm Trại và Mái đá làng Vành chính thức nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt
    Di tích khảo cổ Hang xóm Trại và Mái đá Làng Vành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình vừa được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.
  • Ra mắt hai cuốn sách văn hóa Việt tại Trung Quốc
    Trong khuôn khổ của Tuần lễ Văn hóa sách Trung Quốc – Đông Nam Á 2024 được tổ chức tại Thành phố Nam Ninh (Trung Quốc), Công ty Cổ phần Văn hóa Chi (Chibooks) đã tổ chức lễ ra mắt sách “Vắt qua những ngàn mây” và “Người Hà Nội, chuyện ăn chuyện uống một thời” ấn bản tiếng Trung vào chiều 16/11. Đây là lần đầu tiên sách Văn hóa Việt được dịch ra tiếng Trung và được xuất bản chính thức tại Trung Quốc. Sự kiện do Công ty Cổ phần Văn hóa Chi và NXB Khoa học Kỹ thuật Quảng Tây đồng tổ chức.
  • Lễ hội thiết kế sáng tạo Hà Nội 2024 khẳng định thương hiệu “Thành phố sáng tạo”
    Tối 17/11, Lễ hội Thiết kế sáng tạo Hà Nội 2024 “Giao lộ Sáng tạo” đã kết thúc với thành công ngoài mong đợi, tạo dấu ấn trong lòng nhân dân Thủ đô và du khách.
  • [Podcast] Quốc Tử Giám - Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam
    Văn Miếu - Quốc Tử Giám là biểu tượng của “nguyên khí quốc gia”, nơi đây đào tạo sĩ tử và hơn thế nữa, là nơi tôn vinh nhân tài. Hiện nay, Di tích đặc biệt quan trọng này đang là nơi lưu giữ những hiện vật vô cùng giá trị: Bia Tiến sĩ là Bảo vật Quốc gia, Di sản tư liệu thế giới; Khuê Văn Các được chọn là Biểu tượng của Thủ đô Hà Nội…
Trang phục truyền thống nhìn từ phim Áo lụa Hà Đông và Cô Ba Sài Gòn
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO