Văn hóa – Di sản

Nguyễn Tông Quai – người khai sáng dòng ca Nôm sứ Trình

Lê Văn Tấn - Nguyễn Thị Hưởng 09/11/2023 16:26

Nguyễn Tông Quai (1693 - 1767), huý là Oản, tự là Quai, hiệu là Thư Hiên. Ông quê gốc ở làng Sâm, xã Phúc Khê, huyện Ngự Thiên, sau đổi là Hưng Nhân, nay là xã Hoà Tiến, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Từ nhỏ Nguyễn Tông Quai đã theo cha mẹ lên sống ở kinh thành Thăng Long, từng theo học trường Quốc Tử Giám và thụ học Thám hoa, Hoàng giáp Vũ Thạnh, một bậc thầy nổi tiếng đương thời. Năm 18 tuổi (1710) lấy vợ cùng xã Phúc Khê và trước năm 23 tuổi (1715) lấy vợ lẽ là Lê Thị Thoan, người làng Bình Vọng, Thượng Phúc. Sau này, còn lấy thêm 2 người vợ nữa (đáng chú ý là bà thứ hai và bà ba là hai chị em ruột, còn bà tư là cô ruột của hai bà trên).

nguyen-tong-quai.jpg.jpg
Bức chân dung của cụ Nguyễn Tông Quai được họa sỹ Trung Hoa vẽ tặng trong đợt đi sứ.

Hành trạng của Nguyễn Tông Quai có thể thấy qua một số dấu mốc quan trọng: Năm 1721 (Tân Sửu), ông thi đỗ Hội nguyên Tiến sĩ, đứng đầu 25 Tiến sĩ. Năm 1722 (Nhâm Dần): mùa xuân vào thi Đình do vua Lê, chúa Trịnh trực tiếp làm chánh phó Chủ khảo. Lẽ ra được đỗ Bảng nhãn, nhưng do bị phạm lỗi viết sai chữ “niên” thành “thập” trong dòng đề niên hiệu vua nên bị giáng xuống đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp). Tháng 6, vào sân phủ chúa dự cuộc thi ứng chế do Trịnh Cương ra đề, là một trong hai người được coi là trúng cách. Năm 1722 - 1742, nhờ nổi danh khoa cử, được cất nhắc giữ các chức Hàn lâm sử quán, Thừa chính Kinh Bắc, Đốc đồng Tuyên Quang. Tháng 8 -1734 (Giáp Dần), cùng với Nguyễn Mạnh Thường và quan hầu mệnh đem bọn Đồng Trung thư Nguyễn Đình Bảng, Nguyễn Đăng Cảo đến trước cửa quan Lạng Sơn nghênh tiếp sứ Trung Quốc sang sách phong. Tháng 5 - 1741, khi đang giữ chức Đốc đồng Tuyên Quang, có giặc cướp ở Sơn Tây, Nguyễn Tông Quai có kế hay, phá tan được... Có thể vào khoảng thời gian này, ông tham gia chú dẫn sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Năm Nhâm Tuất (1742), lãnh chức Phó sứ, cùng Chánh sứ Nguyễn Kiều (chồng Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm) đi sứ Thanh. Khi khởi trình, vua đặt tiệc thết ở đình Đông Tân, ban thơ ngự chế, hai người lần lượt phụng họa. Qua hai mùa xuân, mùa đông năm Giáp Tí (1744) tới Yên Kinh, được ở quán Đại Đồng chờ vào triều cống. Tới tháng 11, giao lễ vật và dâng biểu tiến cống. Ngày 15 - 11, vào sân rồng hành lễ, hoàng đế Tống Cao Tông ưu đãi ban cho ngồi thưởng trà. Mùa xuân năm Ất Sửu (1745) được Cao Tông triệu triều ban thưởng và thết tiệc. Ở lại Yên Kinh ba tháng, được hậu đãi ân cần, cứ 5 ngày là đặt tiệc. Tới ngày 5 tháng 2, Cao Tông giáng chỉ cho hồi trình. Dọc đường, trải phong vật kỳ thắng của 7 châu, cùng Nguyễn Kiều đề vịnh, xướng họa, biên thành Sứ Hoa tùng vịnh - tiền hạ tập. Thời gian đi sứ, Nguyễn Tông Quai cũng đã viết cuốn thơ Nôm lục bát Sứ trình tân truyện (Sứ trình Quốc âm). Cuối năm về tới Thăng Long, Nguyễn Tông Quai vào yết kiến vua Lê Hiến Tông, được ban thưởng, thăng chức Hình Bộ Tả thị lang, kiêm Lục Bộ Thượng thư, tước Ngọ Đình hầu. Trong khoảng ba năm (1745 - 1748), giữ chức một thời gian, chưa rõ bao lâu. Sau vì hặc tấu gian thần, bị Việt Quận công Hoàng Ngũ Phúc giáng xuống Hàn lâm thị độc. Thời gian này, liên tiếp bị để ý, sau bỏ quan về nhà ở Kinh đô. Có thể sau khi bỏ quan, đã mở trường dạy học. Năm Mậu Thìn (1748), do không chọn được người, triều đình lại phục chức cũ để cử đi sứ Thanh lần hai. Lần này ông làm Chánh sứ, Phó sứ là Nguyễn Thế Lập, Trần Văn Hoán (Hoán chết dọc đường). Ở lại Yên Kinh một thời gian. Năm Canh Ngọ (1750), trở về tới Thăng Long. Lần này được thăng Hộ Bộ Tả thị lang, tước hầu. Năm Tân Mùi (1751), ông có hộ giá vua làm việc quân sự ở Sơn Tây. Vào tháng 8 - 1751, nhà ở Thăng Long bị cháy do một vụ hỏa hoạn chùa Ngọc Hồ, sách vở và đồ đạc thành tro hết. Lúc ấy ông đương ở Sơn Tây. Thời gian này lại bị gièm pha, kiện tụng. Đình thần nhân buổi ông đi tuế cống, trong nước giặc giã nổi lên, văn thần nhiều người đi đánh dẹp, bàn rằng: “Sứ ra nước ngoài vừa ung dung, vừa được tước lộc... mà hai lần đi sứ là tham”. Lại có cáo giác của dân địa phương, nên phải giáng làm việc ở Viện Hàn lâm là nơi nhàn tản. Năm 1751, Trịnh Doanh sai ông đi dụ bảo, an ủi dân các lộ Sơn Tây. Thái Nguyên, Kinh Bắc. Bài văn bia Trùng tu thánh miếu bi ký cho Văn miêu xã Trần Xá, tổng Hà Trường, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương soạn trong dịp công cán này. Năm Giáp Tuất (1754), chúa lại sai ông đi xem xét các nhà giam, sửa sang những chỗ ẩm thấp, chật hẹp, chẩn cấp cho kẻ thiếu đói, những người bị tội nhẹ thì xét tha về. Năm Đinh Hợi (1767): mất ngày 4-3 Âm lịch tại quê nhà, hưởng thọ 75 tuổi.

Như vậy, có thể thấy, sự nghiệp chính trị của Nguyễn Tông Quai là tương đối dài và lắm gian truân. Ông làm quan khoảng trên 30 năm, trải 5 đời vua, 3 đời chúa, ít nhất hai lần bị biếm trích, có lần đã từng bị giáng làm dân thường. Đương thời Nguyễn Tông Quai nổi tiếng là nhà khoa bảng có tiết tháo và tâm huyết, không a phụ bọn quyền gian. Nguyễn Án trong tập truyện ký Tang thương ngẫu lục từng viết về ông: “Tính ông ngay thẳng mà ghét sự tà khúc, không chịu kiêng tránh gì cả”. Hồ Sĩ Đống trong bài tựa Sứ hoa tùng vịnh cũng nhận xét: “Tiên sinh giữ đạo chính, ghét kẻ tà, tuy bị kẻ hằn thù vu cáo mà bị tội, song tiên sinh trở về vườn thì danh vọng lại càng trọng”...

Trên lĩnh vực giáo dục, Nguyễn Tông Quai có những đóng góp lớn. Ông đã góp phần đào tạo nên nhiều học trò xuất sắc, trong đó có nhà bác học của thế kỷ XVIII và của cả thời trung đại là Lê Quý Đôn - người học trò cùng huyện với ông. Nhiều học trò khác cũng từng đỗ đại khoa, trong đó có Đoàn Nguyễn Thục, cha của Đoàn Nguyễn Tuấn và là nhạc phụ của đại thi hào Nguyễn Du.

Tuy vậy, đóng góp hết sức to lớn của Nguyễn Tông Quai đối với dân tộc phải kể đến lĩnh vực văn học. Ông đã có những đóng góp cho văn học trung đại nói chung và văn học thế kỉ XVIII nói riêng trên nhiều phương diện khác nhau.

Về sáng tác bằng chữ Nôm, ông đã để lại tác phẩm Sứ trình tân truyện, gồm 670 câu lục bát. Tác phẩm này ghi lại hành trình của chuyến đi sứ Trung Hoa năm 1742, khởi đầu nói việc sứ đoàn lên đường và kết thúc khi trở về Tổ quốc. Trong thơ ca đi sứ của Việt Nam thời trung đại, Sứ trình tân truyện của Nguyễn Tông Quai là một hiện tượng độc đáo. Trước ông thấy có nói đến các tác phẩm như Kim Lăng ký bằng quốc âm của Đỗ Cận vào thế kỷ XV, sáng tác khi đi sứ sang nhà Minh, nhưng văn bản đã thất truyền từ lâu. Thế kỷ XVI có Hoàng Sĩ Khải với Sứ trình khúcSứ Bắc quốc ngữ thi tập, nhưng cũng đều đã thất truyền, không rõ đó có phải là những tác phẩm Nôm đích thực hay không. Trong tình hình thơ đi sứ còn trống vắng những tác phẩm bằng chữ Nôm như vậy, sự xuất hiện của Sứ trình tân truyện đã đưa Nguyễn Tông Quai vào vị trí nhà thơ đầu tiên dùng chữ Nôm viết về đề tài đi sứ. Đề tài mới được thể hiện ở một thể loại cũng rất mới, đó là dùng thể ký bằng thơ quốc âm, dẫu rằng tên tác phẩm là tân truyện. Đây chính là một thể nghiệm thành công:

Dặm dài đường vắng như tờ,

Rườm rà khóm trúc, phất phơ bóng hoè.

Xe Thiều thuở hé rèm the,

Ruộng thu vàng rượi mây che đòi ngàn.

Mảng vui cảnh vật giang san,

Thọ Xương ngựa đã gác yên vào chờ.

Nhà thôn lều chợ khói thưa,

Bạc in muôn khóm thành xưa mây về.

Tác phẩm được đánh giá là áng thơ đẹp, tứ thơ văn nhã, tài hoa, âm điệu hài hoà, lời thơ trau chuốt, trong sáng, đánh dấu bước phát triển mới về ngôn ngữ văn học. Trong tập thơ, tác giả còn chép xen vào đó 8 bài thơ Đường luật, bài nào cũng được đánh giá là đẹp một cách điển nhã.

Ngoài Sứ trình tân truyện, Nguyễn Tông Quai còn có tác phẩm Nôm nổi tiếng khác là Ngũ luân tự (Thuật bày ngũ luân), gồm 646 câu thơ song thất lục bát. Tác phẩm diễn về năm mối quan hệ luân thường quan trọng của Nho gia (vua - tôi, cha - con, anh - em, chồng - vợ, bạn - hữu), lấy dẫn liệu ở kho Hán học, với mục đích nêu gương những người đã xử lý tốt năm mối quan hệ đó để giáo huấn người đời. Trước Nguyễn Tông Quai, một số người đã làm việc diễn ca kinh truyện, trình bày nghĩa lý như Phùng Khắc Khoan, Đặng Thái Phương… nhưng phần nhiều đều đã thất truyền. Việc Nguyễn Tông Quai dùng thể song thất lục bát diễn ca ngũ luân là hiện tượng đáng lưu ý. Cả hai tác phẩm Nôm của ông, Sứ trình tân truyện và Ngũ luân tự đều phản ánh một xu thế Việt hoá, Nôm hoá các yếu tố văn hoá gốc Hán đang được diễn ra một cách mạnh mẽ trong giai đoạn đầu thế kỷ XVIII và sẽ còn diễn ra mạnh mẽ hơn ở nửa sau của thế kỷ này. Trong xu thế ấy, Nguyễn Tông Quai là một trong những người đi tiên phong.

Về sáng tác bằng chữ Hán, hậu thế còn biết đến Nguyễn Tông Quai qua tập thơ Sứ hoa tùng vịnh. Tập thơ gồm những sáng tác trên đường đi sứ của ông. Đề tài là những cảnh quan, phong thổ, nhân vật, di tích... gặp trên đường đi sứ Thăng Long đến Yên Kinh cũng nỗi niềm xa nước, nhớ quê da diết và tấm lòng trung quân ái quốc ngời sáng. Theo các nhà văn bản học thì đây là tác phẩm khá phức tạp về phương diện văn bản. Nó có tiền tập, hậu tập và là tác phẩm của hai người: Nguyễn Tông Quai và Nguyễn Kiều. Tác phẩm gồm tất cả trên 200 bài thơ. Sứ hoa tùng vịnh đã làm cho tài thơ của Nguyễn Tông Quai nổi danh trong và ngoài nước. Tác phẩm còn ghi lời tựa, lời bình của một số nhân sĩ Trung Hoa và Triều Tiên như Lý Bán Thôn, Trương Hán Chiêu, Âu Dương Vượng, Vương Vân Tường, Trịnh Ngọc Trai... Những bài tựa, bài bình này viết trên đất Trung Hoa khi họ được đọc Sứ hoa tùng vịnh, trong đó có nhận xét của Lý Bán Thôn: “Thơ của tiên sinh cách luật tề chỉnh, âm điệu cao siêu, nắn nót từng câu từng chữ, thảy đều theo đúng khuôn phép Thịnh Đường. Dẫu Trung Hoa có tiếng hay thơ cũng không hơn thế được” (Tổng tập văn học Việt Nam, 1997). Một số danh sĩ trong nước như Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Hồ Sĩ Đống, Phan Huy Chú... đều có viết lời bình, lời tựa hoặc có ý kiến đánh giá, coi đây là tác phẩm thuộc vào loại hay nhất trong làng thơ đi sứ vốn rất phong phú trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam. Có thế nói, hiện lên trong Sứ hoa tùng vịnh chính là hình ảnh của một sứ thần mẫn cán với công việc đại diện cho quốc gia và thể diện dân tộc; một thi nhân hoà nhập cùng với thiên nhiên phong cảnh và sinh hoạt của nhân dân, dù ở trong nước hay ngoài nước cũng hiện lên với ý nghĩa con người đời thường nhất; và ở đó cũng là hình ảnh của một người con luôn luôn hướng lòng mình về phương Nam yêu dấu:

Vạn lý trì khu độ ngã giao,

Lăng lăng sóc xuý phất tinh mao.

Đẩu Nam tinh khuyết hồi đầu cận,

Hán Bắc quan sơn dẫn bộ cao.

Vân ủng vãn tình ngưng lữ tử,

Phong dao tích thuý trạm chinh bào.

Nhất thanh hà xứ phong tiền địch,

Xuy động ngâm trần trục hưởng cao.

(Ruổi giong muôn dặm, vượt qua bờ cõi nước ta,

Gió bấc lạnh phả vào cờ sứ.

Quay đầu về cung vua, sao Đẩu Nam còn gần,

Lần bước chân quan san, đất Hán Bắc xa xôi.

Mây đùn trời tạnh, chiều tà ngưng trong lòng lữ khách,

Núi lay màu biếc dồn tụ, thấm đượm áo người đi xa.

Đâu đây vẳng tiếng sáo trước gió,

Thổi rung động làm cho bụi thơ cũng theo âm hưởng mà bay bổng)

Nguyễn Tông Quai không chỉ nổi tiếng trong làng thơ đi sứ mà ngay trong lĩnh vực thơ vịnh sử quan phương chính thống vốn đã có nhiều thành tích, ông vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong An Nam đại tứ tài hay Trường An tứ hổ (cùng với Nguyễn Trác Luân, Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Lân). Bốn ông hổ Trường An trong lĩnh vực thi ca này đã đưa thơ vịnh sử bước vào tầm cao mới với Vịnh sử thi quyển. Trong bốn vị tài tử, Nguyễn Tông Quai được đánh giá là vị trí số một, trước tác của ông chiếm khoảng 70 bài trong tập thơ này.

Ở thơ vịnh sử, Nguyễn Tông Quai là tác giả đã đưa vào đó cái phần sinh khí tươi mới. Thơ vịnh sử của ông giàu hình tượng và cảm xúc, có nhiều nét khác với thơ vịnh sử vốn khô khan, giáo huấn đạo lý thường gặp ở các tập thơ vịnh sử trước đó. Ông không chỉ vịnh các đế vương danh tướng nổi tiếng mà còn quan tâm bày tỏ lòng cảm thương đối với những kiếp người chịu nhiều oan nghiệt, bi phẫn, chẳng hạn như Hạng Vũ, Hàn Tín, nàng Vương Cơ (người bị Lã Hậu vì ghen mà giết hại một cách dã man) hay đám cung nữ nhà Hán hy sinh vì chúa... Đây là bài ông viết về nàng Vương Cơ:

Vương Cơ túc túc Hán gia tần,

Bất thẩm hà vi vị “trệ nhân”.

Hình ngoại trạng hồ tân nhược cựu,

Xí trung tượng tiểu giả hoàn chân.

Vọng phai di sái Trường Lăng lệ,

Đố phụ nan hôi động bích trần.

Dã giác tấn kê kim cổ hoạn,

Đồ cô thường sử áng hoài nhân.

(Trệ nhân)

(Vương Cơ nghiêm trang là phi tần của nhà Hán,

Không hiểu vì sao gọi là “lợn người”.

Hình thức bề ngoài mập mờ mới mà như cũ,

Hình ảnh người trong chuồng xí giống hệt, giả mà hoá thật.

Trông chồng mà giọt lệ Trường Lăng dễ nhỏ,

Con mụ ghen thì dù mảy bụi ở trên vách cũng khó lòng bỏ qua.

Biết rằng, loài gà nái (gáy sáng) đều là mối lo xưa nay,

Là một nguyên nhân thường khiến những tay đồ tể tức đầy tim gan)

Rõ ràng, Nguyễn Tông Quai đã không đem vào thơ vịnh sử của mình cái đạo lý chính thống thông thường để án, để luận về các nhân vật lịch sử mà ông thiên về bày tỏ tình cảm, sự đồng tình, chia sẻ, hay xót thương cho số phận của những con người thời quá vãng. Ông làm thơ vịnh sử để di dưỡng tính tình, để ngôn chí, giáo huấn thì ít mà bày tỏ tình cảm thì nhiều. Về điều này, nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân từng có đánh giá: “Ít khi lí luận khô khan, mà trữ tình cảm thông, trân trọng, thiết tha yêu thương, hoặc khinh bỉ, căm ghét, ghê tởm đến tột cùng, là đặc điểm của thơ vịnh sử Nguyễn Tông Quai” (Khảo và luận một số tác giả và tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Tập I, 1999). Điểm mới này trong thơ vịnh sử Nguyễn Tông Quai cũng là xu hướng chuyển biến chung của văn học thế kỷ XVIII. Cái mới mẻ trong thơ Nguyễn Tông Quai diễn ra trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, đã từng được nhiều nho sĩ đương thời, cũng như các nhà nghiên cứu ngày nay phát hiện và đánh giá cao.

Nguyễn Tông Quai xứng đáng với tư cách một nhà ngoại giao, một nhà giáo dục và một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam thời trung đại./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
  • Từ Đạo Hạnh – thiền sư, thi nhân
    Từ Đạo Hạnh là pháp danh, còn tên thật là Từ Lộ. Ông là thiền sư và là nhà thơ nổi tiếng thời Lý. Chưa thấy tài liệu nào ghi về ngày sinh của Từ Lộ, chỉ biết ông sống vào thời Lý Nhân Tông (1072 - 1128), và qua đời năm 1117. Ông người hương Yên Lãng, tục gọi làng Láng, một làng rất cổ ở ven thành Thăng Long xưa.
(0) Bình luận
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội: Nỗ lực gìn giữ và lan tỏa giá trị văn hóa dân gian
    Sáng 18/12, tại khách sạn La Thành (Hà Nội), Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2026. Đây là dịp để Hội nhìn lại một năm hoạt động trong, đồng thời xác định những định hướng quan trọng cho năm 2026.
  • Nhìn lại hành trình ba thập kỷ của “Kính vạn hoa”
    Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ra đời bộ sách “Kính vạn hoa” (1995-2025), vào sáng ngày 20/12/2025, tại Nhà Thiếu nhi TP. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Kim Đồng sẽ tổ chức chương trình giao lưu, ký tặng và trao giải cuộc thi viết và vlog “Kính Vạn Hoa mở ra thế giới…” nhằm tôn vinh một trong những bộ sách kinh điển của văn học thiếu nhi Việt Nam, đồng thời tri ân các thế hệ bạn đọc đã lớn lên cùng tác phẩm.
  • Cuốn sách dành cho cha mẹ của những đứa trẻ ghét viết
    Trong ký ức của không ít người trưởng thành, viết từng là một áp lực kéo dài suốt những năm tháng đi học: sợ sai chính tả, sợ bị chấm điểm thấp, sợ viết không đúng ý thầy cô. Nỗi sợ ấy, theo Julie Bogart (tác giả cuốn sách) không chỉ tồn tại ở trẻ em mà còn in hằn trong người lớn. Thực tế đó đã thôi thúc bà viết “Cuốn sách dành cho cha mẹ của những đứa trẻ ghét viết” như một lời mời gọi các bậc phụ huynh thay đổi cách nhìn nhận và đồng hành cùng việc viết của trẻ em. Cuốn sách do Nhà xuất bản Thế giới và Công ty Cổ phần Xuất bản & Dữ liệu ETS liên kết xuất bản, vừa ra mắt bạn đọc.
  • Hà Nội: Khai mạc triển lãm kết nối sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch
    Tối 18/12, Sở Công thương Hà Nội tổ chức khai mạc triển lãm quảng bá, giao thương kết nối các sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ và làng nghề phục vụ du lịch tại xã Bát Tràng năm 2025.
  • Lội ngược dòng thắng 3-2 trước Thái Lan, U22 Việt Nam vô địch SEA Games 33
    Tối 18/12, tuyển U22 Việt Nam đã lội ngược dòng đánh bại chủ nhà Thái Lan 3-2 ở trận chung kết đầy cảm xúc để đoạt HCV môn bóng đá nam SEA Games 33.
Đừng bỏ lỡ
  • Tháo gỡ điểm nghẽn, định vị vai trò Thủ đô Hà Nội trong kỷ nguyên phát triển mới
    Sáng 19/12 tại Trụ sở Đảng ủy phường Thanh Xuân, Thành ủy Hà Nội phối hợp với Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức Hội thảo khoa học “Thủ đô Hà Nội trong kỷ nguyên phát triển mới”. Hội thảo nhằm làm rõ hơn những vấn đề đang đặt ra trong bối cảnh mới của Thủ đô, đồng thời xây dựng và phát triển Hà Nội trong kỷ nguyên mới xứng với tầm vóc, sự kỳ vọng của cả nước và sự tin tưởng của các nhà đầu tư, của bạn bè quốc tế.
  • Hà Nội đẩy nhanh giải phóng mặt bằng 7 cây cầu vượt sông Hồng
    Song song với công tác thi công, giải phóng mặt bằng (GPMB) đang được Hà Nội xác định là "chìa khóa" mang tính quyết định đối với tiến độ các dự án xây dựng 7 cây cầu vượt sông Hồng.
  • Không gian nghệ thuật đa thanh sắc tại chương trình “Âm nhạc cuối tuần” chiều 21/12
    Sau những buổi biểu diễn để lại nhiều dư âm đẹp trong lòng khán giả, chương trình “Âm nhạc cuối tuần” tiếp tục hành trình đưa âm nhạc đến gần hơn với đời sống văn hóa người dân Thủ đô. Đặc biệt trong buổi biểu diễn tuần này, sẽ giới thiệu nhiều loại hình âm nhạc như dân gian, cổ điển, nhạc trẻ... tạo nên không gian nghệ thuật đa thanh, đa sắc.
  • Cơ hội thưởng lãm 26 tác phẩm của họa sĩ Tô Ngọc Vân
    Sáng ngày 18/12, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (66 Nguyễn Thái Học, Hà Nội) đã tổ chức ra mắt Không gian trưng bày chuyên đề đặc biệt nhằm tôn vinh những tác giả và tác phẩm tiêu biểu của mỹ thuật Việt Nam. Tại lễ ra mắt, lần đầu tiên công chúng được tiếp cận một chuyên đề đặc biệt về họa sĩ, liệt sĩ Tô Ngọc Vân - một trong những danh họa tiêu biểu nhất của nền mỹ thuật hiện đại và mỹ thuật cách mạng Việt Nam.
  • Dự án cầu Vân Phúc: Tạo diện mạo phát triển mới cho khu vực phía Tây Bắc Thủ đô
    Nhằm góp phần hoàn chỉnh hệ thống giao thông theo quy hoạch, tạo động lực thúc đẩy phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội khu vực hai bên bờ sông Hồng, Dự án đầu tư xây dựng cầu Vân Phúc vượt sông Hồng và tuyến đường kết nối ra Quốc lộ 32 đã được triển khai, mở ra kỳ vọng tăng cường liên kết vùng, giảm tải áp lực giao thông và tạo diện mạo phát triển mới cho khu vực phía Tây Bắc Thủ đô.
  • Chuẩn bị diễn ra Lễ hội Ném còn 3 nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc
    Từ ngày 19 - 21/12/2025, tỉnh Điện Biên sẽ đăng cai tổ chức Lễ hội Ném còn ba nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc lần thứ IX, một sự kiện văn hóa mang tính đặc thù khu vực, được tổ chức luân phiên hằng năm giữa các địa phương có chung đường biên giới của ba quốc gia.
  • “Du lịch Thủ đô Hà Nội sẽ có những bước phát triển vượt bậc trong kỷ nguyên mới”
    Đó là đánh giá của ông Hà Văn Siêu - Phó Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tại diễn đàn “Hiện thực hóa giải pháp tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế đến Thủ đô Hà Nội” do Sở Du lịch Hà Nội tổ chức sáng 17/12.
  • Mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt
    Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một bậc Nho sĩ uyên bác, một nhà giáo mẫu mực và là một thầy thuốc trọn đời tận tâm phụng sự nhân dân và đất nước...
  • Dự án xây dựng cầu Thượng Cát: Hà Nội giải bài toán quy hoạch bền vững để vươn mình
    Dự án đầu tư xây dựng cầu Thượng Cát và đường hai đầu cầu đã được chính quyền Thành phố Hà Nội khởi công vào đầu tháng 10/2025. Cầu Thượng Cát có vị trí, vai trò quan trọng đối với việc phát triển Thủ đô trong giai thời kỳ mới, bởi công trình sau khi hoàn thành sẽ tạo ra dải kết nối xuyên suốt của Thành phố Hà Nội.
  • Lễ hội Văn hóa ẩm thực Hà Nội 2025: Gìn giữ bản sắc, lan tỏa tinh hoa văn hóa Thủ đô
    Nhằm tôn vinh văn hóa ẩm thực Hà Nội, đưa ẩm thực trở thành sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô, từ ngày 19 đến 21/12, Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội tổ chức Lễ hội văn hóa ẩm thực Hà Nội 2025 với chủ đề “Hà Nội - Hành trình ẩm thực kết nối sáng tạo” tại công viên Thống Nhất.
Nguyễn Tông Quai – người khai sáng dòng ca Nôm sứ Trình
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO