Chuyện ông hiệu cờ trong hội Gióng Phù Đổng
Hội làng Phù Đổng (huyện Gia Lâm) diễn ra vào ngày mồng 9 tháng Tư âm lịch nhằm tái hiện trận đánh giặc Ân của người anh hùng huyền thoại ở làng Gióng.

Từ xa xưa, việc quan trọng khi hàng tổng vào hội là chọn các ông hiệu: hiệu cờ, hiệu trống, hiệu chiêng, hiệu trung quân (người thay mặt vua giám sát trận đánh) và hiệu tiểu cổ (chỉ huy đội quân nhi đồng). Các ông hiệu được tuyển, tuổi từ 18 đến 26, có sức khỏe, ngoại hình đẹp, kinh tế khá giả, không vướng tang sự; đặc biệt phải là người có phẩm hạnh, vợ chồng song toàn, con cái có đủ nếp tẻ và ngoan ngoãn. Người được giao trọng trách này phải tự chi tiền để mua sắm trang phục cho giai nhân, nuôi từ 24 đến 30 người phục vụ trong suốt 10 ngày; đồng thời phải lo tiếp đãi chức dịch, bạn bè trong thời gian mở hội. Sau khi hoàn thành “việc nhà thánh”, ông hiệu cờ được dân làng kính trọng và gọi là ông hiệu suốt đời.
Ngày 15 tháng Ba, giáp chủ hội rước lư hương đến đền, khấn trình diện các ông hiệu với Đức Thánh. Đêm 30 tháng Ba (từ 12 giờ đêm đến 4 giờ sáng ngày mồng 1 tháng Tư), sáu ông hiệu lần lượt rước chân hương Đức Thánh Gióng từ đền Thượng về tư gia. Bát hương Đức Thánh được đặt tại vị trí ban thờ gia tiên, còn bát hương thờ tổ tiên của gia đình tạm thời chuyển ra vị trí khác. Chỉ khi hội kết thúc, Đức Thánh hoàn cung, bát hương gia tiên mới được đưa trở lại vị trí cũ.
Sau khi rước Đức Thánh về nhà, ông hiệu được bố trí ăn ở riêng biệt để giữ sự thanh tịnh. Mỗi ông có một người thầy hướng dẫn lễ thức là ông hiệu của hội năm trước. Đồng thời, một bé trai từ 10 đến 15 tuổi (chưa lập gia đình) được chọn làm người hầu cận, là người duy nhất được ông hiệu giao tiếp trong suốt thời gian chuẩn bị hội. Hằng ngày, ông hiệu thực hành trai giới nghiêm ngặt, ăn uống thanh đạm với các món tinh sạch như ruốc thịt, canh rau. Trong thời gian này, không chỉ ông hiệu mà cả các hương chức và dân làng đều kiêng kỵ các thực phẩm sinh mùi hôi như hành, tỏi, thịt chó. Đến nay, người Phù Đổng vẫn truyền lại những câu chuyện ly kỳ về các ông hiệu trong hội. Có ông vì trót ăn một nhánh tỏi nên khi ra đền, cứ quanh quẩn bên cột đền, không tiến vào được, phải khấn vái rất lâu mới trở lại bình thường. Lại có ông khác, trong thời gian cách ly tại gia, vì quá nhớ con đã chạy ra ôm, liền vấp ngã và gãy cả răng cửa...
Cùng với việc cử các ông hiệu, làng còn chọn 28 tướng gái là tướng của giặc Ân, trong đó có hai bé để đóng vai nguyên soái. Các tướng là các bé gái từ 8 đến 12 tuổi. Ngày 25 tháng Ba, sau khi làm lễ trình, các tướng nhận áo mũ của đền và tự may 1 - 2 bộ nữa để thay đổi. Từ thời điểm đó, mỗi tướng ở một phòng riêng, có một bé gái cùng tuổi phục vụ ngày đêm. Hai nguyên soái phải ăn chay tuyệt đối và không tiếp xúc với người thân cho đến khi hội kết thúc vào ngày 10 tháng Tư.
Quyền uy của ông hiệu cờ gắn với lá cờ lệnh - may bằng lụa nhuộm màu hoàng hiên, dài 2,45 mét và rộng 0,35 mét. Trong lễ hội, ông hiệu cờ sẽ phất cờ ấy trong trận đánh, sau đó là cờ được cắm trong chính điện suốt năm. Đến ngày 15 tháng Ba, cờ được giao cho giáp kế cận cầm để tập luyện. Hằng năm, đến ngày hội đều thay cờ mới nhưng ông hiệu cờ chỉ tập với lá cờ cũ.
Trong bảy ngày đầu tháng Tư, làng chọn ngày lành để mời một vị hương chức viết chữ đẹp đến nhà ông hiệu để viết chữ “lệnh” lên lá cờ. Bút lông, mực Tàu đều phải mới. Ngày 7 tháng Tư, cờ được đặt vào hòm rước đến miếu trong giáp để tra cán rồi cuộn lại và cho vào bao hình chữ nhật thêu rồng phượng, có gắn các hạt cườm, tua rủ. Trong bao - gọi là “miều”, người ta bỏ vào 100 tờ giấy bản trắng, 1000 mảnh giấy màu cắt hình con bướm và 60 mẩu gỗ hương to bằng những đồng xu. Đến 10 giờ sáng, giáp chủ hội và ông hiệu cờ long trọng rước túi “miều” lên đền Mẫu, cách đền Thượng khoảng 700 mét.

Đúng 2 giờ 30 chiều ngày 9 tháng Tư, trận đánh bắt đầu. Ông hiệu cờ cầm cờ tiến vào chiếc chiếu đầu ở phía gần bàn thờ. Vị thủ chỉ làng Phù Đổng có ông thủ từ giúp sức. Những mẩu giấy màu và gỗ hương đựng trong bao được tung ra, người dân tranh nhau nhặt để lấy khước. Ông thủ từ cũng khéo léo giữ lại được khá nhiều trong cái hộp sơn son để sau phân phát cho dân trong tổng, làm sao để không ai tị nạnh.
Khi cờ lệnh được giăng rộng, ông hiệu cờ múa nhiều động tác theo nét của chữ lệnh, rồi đứng dậy, đi giật lùi ra khỏi chiếu. Đám đông nhảy vào tranh nhau chiếc chiếu ấy, bởi chỉ cần một mẩu chiếu nhỏ cũng được tin là mang lại may mắn, trừ bệnh tật, thậm chí giúp phụ nữ hiếm muộn có thể sinh con.
Thế nhưng cuộc chiến thắng chưa trọn vẹn, vì trong khi phất cờ, ông hiệu đã phất ngược hai nét ngoài của chữ lệnh. Ông vạch nét phải trước, nét trái sau. Thế thì chưa đủ linh. Địch chưa bại hẳn, quân giặc tiếp tục kéo đến làng Phù Đổng. Trận đánh thứ hai diễn ra tại Sòi Bia. Ba chiếc chiếu cũng được trải ra như ở Đống Đàm trước một mô đất làm bàn thờ, ở đó đặt ngựa bạch, vũ khí và cờ xí.
Sau ba tiếng trống làm hiệu, ông hiệu cờ tiến hành lại các động tác như trận đánh thứ nhất. Chỉ khác là lần này, ông phất cờ từ trái sang phải, vạch đúng hai nét ngoài của chữ lệnh. Dân chúng cũng ùa vào tranh nhau từng chiếc chiếu. Để tránh sự lộn xộn như nhiều lần đã xảy ra, người ta quy định rõ cách phân chia chiếu: Trận đầu, chiếu thứ nhất dành cho quân lính ở làng Phù Đổng; chiếu thứ hai dành cho quân lính ở làng Phù Dực; chiếu thứ ba dành cho tất cả người ngoài tổng; Trận thứ hai, chiếu thứ nhất cho quân lính làng Đổng Viên, chiếu thứ hai cho làng Đổng Xuyên và chiếu thứ ba dành cho khách ngoài tổng.
Lá cờ lệnh cũng mang ý nghĩa may mắn. Mỗi năm, người ta chia nhau lá cờ của năm trước, là cờ dùng để tập dượt các vai: phần lá cờ có chữ lệnh dành cho ông thủ chỉ hành lễ ngày mồng 9 tháng Tư, ngày diễn ra trận đánh; phần từ chữ lệnh đến cán cờ dành cho ba ông hiệu (cờ, chiêng và trống), phần còn lại chia cho giáp chủ hội.
Nhiều năm qua, việc kiêng kỵ tại đền Phù Đổng gắn liền với lá cờ lệnh. Mỗi lần làm lễ mở miễu cờ, thể nào trời đang nắng bỗng dưng râm mát, dân làng tin đó là dấu hiệu Đức Thánh hiện linh. Khi phất cờ ra trận, ông hiệu phải rất thận trọng, không để cờ quấn vào cán bởi nếu lỡ xảy ra, phải dâng lễ tạ thần tại đền vì đó là điềm không lành. Cả ông hiệu chiêng cũng phải đánh đúng cách, tuyệt đối không để vú chiêng biến dạng. Nếu chiêng bị móp méo, đồng đất năm đó bị hạn hán, vì kim sinh thủy, kim bị triệt thì thủy không sinh.
Việc kiêng kỵ liên quan đến Đức Thánh Gióng còn có ở phạm vi rộng hơn. Ngay sau khi đánh tan giặc bay về trời, cậu bé ở làng Phù Đổng được vua Hùng thứ sáu phong là Phù Đổng thiên vương, đến triều Lý phong là Sung Thiên thần vương. Trong dân gian, tên “Gióng” gắn với hình ảnh cái gióng tre, nơi mẹ ru con thuở bé rồi trở thành tên Nôm của làng. Gióng là tên gắn liền với huyền tích Đức Thánh./.
........................................................
(Bài có sử dụng tư liệu của TS. Nguyễn Văn Huyên in trong sách “Hội hè lễ Tết của người Việt” (Nxb Thế giới, 2017); và lời kể của bà Nguyễn Thị Yên, ông Đặng Trần Chiến (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm).