Trao đổi với báo chí bên lử buổi công bố báo cáo thường niên kinh tế năm 2014 hôm qua, ông Nguyễn Đức Thà nh nhận định kinh tế Việt Nam sẽ gặp nhiửu khó khăn trong năm nay và năm tới, sau khi Trung Quốc hạ đặt trái phép già n khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyửn kinh tế của Việt Nam.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thà nh cho rằng cú sốc trong mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sẽ khiến tăng trưởng kinh tế năm nay khó đạt ngườ¡ng 5%. Ảnh: VEPR |
- Trong báo cáo mới công bố, VEPR dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2014 chỉ đạt 4,15 - 4,88%, thấp hơn năm 2013 cũng như mục tiêu Quốc hội đử ra. Đâu là nguyên nhân để ông và nhóm nghiên cứu đưa ra dự báo nà y?
- Đầu năm, chúng tôi dự báo tăng trưởng kinh tế năm nay khoảng 5,4 - 5,5%, song vì cú sốc trong mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc nên nhóm nghiên cứu phải tính toán lại, bởi các doanh nghiệp cũng như Chính phủ sẽ có thay đổi để thích nghi, từ đó có thể tạo ra sự suy giảm nhất định.
Có hai kịch bản được đưa ra. Một là Trung Quốc có ý đồ thực sự, gây ảnh hưởng tiêu cực đến Việt Nam thì kinh tế trong nước sẽ ảnh hưởng lớn. Còn trong trường hợp Trung Quốc chỉ gây áp lực vử chính trị, kinh tế giữa hai nước vẫn bình thường thì tăng trưởng sẽ cao hơn.
Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp tăng trưởng kinh tế đửu chỉ dưới 5%, bởi doanh nghiệp lo ngại sẽ khiến hoạt động đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh suy giảm, ảnh hưởng đến nửn kinh tế. Chúng tôi dự báo cú sốc nà y sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế năm nay và cả năm sau.
- Vậy Việt Nam cần là m gì để hạn chế những tiêu cực nếu căng thẳng hai nước lên cao, đặc biệt khi giao thương với Trung Quốc hiện vẫn đóng vai trò quan trọng?
- Thực ra cú sốc nà y là cơ hội để Việt Nam tự nhìn lại mình, rằng khi quan hệ tốt đẹp thì giao thương kinh tế với Trung Quốc trôi chảy, nhưng khi không tốt thì chúng ta mới thấy mình lệ thuộc nhiửu. Do đó, Việt Nam cần có sự chuyển hướng, tăng cường khả năng sản xuất, tự cung ứng nguyên liệu và tìm các đối tác tương đương hoặc tốt hơn Trung Quốc, như các quốc gia trong khu vực ASEAN hay Hà n Quốc, một đối tác có khả năng thay thế đầu và o khá tốt hiện nay.
Trong nội bộ nửn kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân phải linh hoạt hơn, tìm sẵn nguồn nguyên vật liệu thay thế. Khu vực Nhà nước cũng phải có kế hoạch hỗ trợ để không phụ thuộc quá nhiửu và o Trung Quốc.
Những việc trên hoà n toà n khả thi. Nếu không thực hiện, kinh tế Việt Nam sẽ ngay lập tức vấp phải khó khăn trong tương lai. Ví dụ, khi Việt Nam và Trung Quốc hữu hảo thì lượng khách du lịch đến rất động, nhưng bây giử nguồn khách bị chặn đứng. Xuất khẩu gạo, cao su cũng phụ thuộc nhiửu và o Trung Quốc.
Việt Nam cũng nhập nhiửu nguyên vật liệu từ Trung Quốc vì hà ng hóa, máy móc của họ giá rất rẻ, cho phép doanh nghiệp quay vòng vốn nhanh hơn. Song, việc là m nà y hiện nay cần phải nhìn lại. Các doanh nghiệp nên tái cơ cấu chu trình sản xuất của mình, nhập những máy móc, hà ng hóa có giá trị cao hơn. Tuy vòng quay vốn sẽ kéo dà i nhưng sẽ hạn chế được rủi ro, sự bất nhất và không thể dự báo được trong mối quan hệ với Trung Quốc.
- Ngoà i rà o cản từ mối quan hệ với Trung Quốc, theo ông Việt Nam tăng trưởng thấp còn do những yếu tố nà o?
- Theo phân tích của chúng tôi, rà ng buộc tăng trưởng kinh tế còn nằm ở những yếu tố như cơ sở hạ tầng, thể chế pháp lý bảo vệ nhà đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp, sự phát triển của trung gian tà i chính và nguồn nhân lực... Ngay cả hoạt động xuất khẩu, Việt Nam cũng phụ thuộc và o nguyên liệu thô, nếu không thay đổi, khi hội nhập chúng ta chỉ có lợi thế ban đầu nhưng sau đó những bất lợi có thể lấn át.
Việc đưa ra những rà ng buộc trên cốt để thấy Việt Nam nên có định hướng rõ rà ng hơn để loại bử những cản trở, đưa kinh tế và o quử¹ đạo tăng trưởng cao hơn. Chẳng hạn như phải cải thiện, nâng cao chất lượng của hệ thống trung gian tà i chính nhằm dẫn vốn cho nửn kinh tế tốt hơn. Đặc biệt, thể chế và thủ tục hà nh chính phải hỗ trợ để giảm chi phí cho doanh nghiệp, bảo vệ nhà đầu tư.
- Trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, ông đánh giá như thế nà o vử môi trường đầu tư và doanh nghiệp sẽ phải là m gì để vượt qua khó khăn?
- Môi trường đầu tư quan trọng nhất là phải bảo vệ nhà đầu tư, các thủ tục hà nh chính hỗ trợ cho việc kinh doanh cũng phải dễ dà ng, tránh thiên vị giữa nhà đầu tư trong nước và ngoà i nước. Do đó, chính quyửn địa phương phải cải thiện thủ tục hà nh chính để bảo vệ tà i sản cho nhà đầu tư.
Đối với nợ xấu, theo tôi tiến trình xử lý hiện nay mới chỉ ở bước đầu là thống kê các khoản nợ trong hệ thống ngân hà ng thương mại mà chưa có bước cụ thể gây dựng thị trường giải quyết số nợ nà y và tạo cơ hội cho các ngân hà ng xây dựng một chu trình cho vay mới. Điửu nà y có nghĩa hiện nay chưa có dòng tiửn thực để mua nợ xấu, cắt bử nó đi hay cho phép tổ chức trong và ngoà i nước mua. Do vậy, cần có thêm những công cụ xử lý nợ xấu bên cạnh việc mua bán nợ qua Công ty Quản lý tà i sản VAMC.
Tín dụng hiện nay cũng không tăng được do rủi ro từ phía cầu. Bản chất doanh nghiệp có muốn vay hay không, muốn mở rộng sản xuất hay không? Nếu họ chưa có các nhu cầu trên và lãi suất còn cao so với rủi ro phải chịu thì doanh nghiệp sẽ không tiếp cận tín dụng.
Trong hoà n cảnh nà y, tôi đánh giá doanh nghiệp Việt Nam đang chịu tác động lớn hơn từ các điửu kiện vĩ mô, do vậy cần cải thiện môi trường kinh doanh, gỡ bử những rà o cản tăng trưởng. Bản thân doanh nghiệp cũng phải linh hoạt hơn trong việc tìm kiếm các nguồn lực và cơ hội kinh doanh mới. Tránh việc chịu ảnh hưởng quá nhiửu bởi những tin đồn, cú sốc tác động tới quyết định đầu tư dà i hạn của doanh nghiệp.