Đình, miếu Tây Tựu

Phương Anh (T/h)| 07/12/2022 17:34

Tây Tựu là một làng cổ, có từ mấy ngàn đời. Với tên cổ xưa là làng Tây Đam. Nằm về phía tây cách trung tâm thủ đô Hà Nội 20km Tây Tựu là một vùng đất cổ, có lịch sử tồn tại và phát triển từ rất lâu đời.

Dấu ấn văn hoá của thời dựng nước còn được lưu lại qua tục thờ Phúc thần Bạch Hạc Tam Giang - người có công trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm bảo vệ vương triều Hùng.

Đình Tây Tựu, một công trình kiến trúc tôn giáo cổ kính được xây dựng từ thời Lê, do bà Nguyễn Thị Tính, một người phụ nữ tài sắc của quê hương đã trở thành Đệ bát cung phi (vợ vua Lê Thế Tông), cho dân lấy gỗ, kén thợ giỏi làm ở Kinh đô về Tây Tựu xây dựng đình làng.

Bạch Hạc Tam Giang là một nhân vật được thờ làm Thành hoàng của nhiều làng quê truyền thống. Lai lịch và công tích của thần đã được sử sách xưa và nay ghi chép khá nhiều. Theo cuốn Bạch Hạc Tam Giang Thánh vương ngọc phả hiện còn, thì ông Đào Trường (tức Bạch Hạc Tam Giang) là con trai thứ ba của ngài thái phó Bộ trưởng đất Hoan Châu tên là Đào Bột. Tướng công Đào Trường có tài kinh bang võ nghệ cao cường, được tiến cử làm thổ lệnh trường, cai quản quận Sơn Nam.

Khi ấy giặc phương bắc đem quân xâm lược nước Văn Lang. Trước nạn ngoại xâm, Hùng Duệ Vương đã vời thổ lệnh Đào Trường về triều để bàn kế hoạch đánh giặc, thổ lệnh tâu rằng “nên đón đường thuỷ mà đánh”.

Nhà vua nghe theo và giao cho Đào Trường thống lĩnh thuỷ quân, chỉ một trận đã dẹp tan quân giặc.

Thắng trận, Đào Trường được triều đình phong làm Thổ lệnh Thống Quốc đại vương trấn giữ kinh thành Bạch Hạc chức Quốc trưởng lệnh đô - Lạc long hầu Đại tướng Quân. Sau đó thổ lệnh Đào Trường còn chỉ huy quân đội Văn Lang đánh tan cuộc xâm lược lần thứ hai của giặc phương bắc và dẹp yên ở Hồng Châu. Trên đường thắng giặc từ Hồng Châu trở về, Đào Trường đã giao quyền chỉ huy quân đội cho em là Thạch Khanh, và ông đã theo dòng sông nhỏ tới tôn thất trang rồi hoá tại đây.

Nghe tin ông mất, nhà vua vô cùng thương tiếc. Hùng Duệ Vương đã cho tổ chức tang lễ trọng thể, phong cho Đào Trường là Thượng đẳng phúc thần và cho phép 172 làng lập đền thờ Bạch Hạc Tam Giang.

Đình và miếu Tây Tựu có khởi nguồn xây dựng khá sớm và có liên quan mật thiết với nhau qua vị Thành hoàng làng.

Cuối thế kỷ XVI, vua Lê Thế Tông đã cho dựng lại ngôi đình bề thế khang trang. Những thế kỷ sau, khu di tích được trùng tu và sửa chữa nhiều lần.

Đình Tây Tựu được xây dựng trên khu đất rộng sát dòng sông Pheo. Đình có quy mô lớn với nhiều kiến trúc hợp thành. Phía trước là ao chạ hình vuông, rồi đến hai lầu Chính ngự, bốn nhà Phương đình vuông, và hai dãy tả hữu mạc dẫn vào khu đình, dọc hai bên tả hữu có thuỷ đình nhà hậu, văn chỉ, từ vũ và hai xưởng thuyền. Các kiến trúc này được định vị từ thời Lê Trung Hưng và có bóng dáng của kiến trúc cung đình.

Chính ngự ngoài là lớp nhà ngang 3 gian xây kiểu chồng diêm 8 mái với các góc đao cong ngược lên, mái lợp ngói ta. Trên kiến trúc có trang trí các hình rồng chầu mặt nguyệt, tượng nghe, hoa văn đồng tiền.

Sau Chính ngự ngoài, có con đường chạy theo trục thần đạo để dẫn vào nhà Chính ngự trong. Phần kiến trúc này được xây dựng thành Phương đình 2 tầng 8 mái, 4 mái trên hình tam giác, thu nhỏ ở phần nóc. Nóc mái đắp nổi cao hình trái dành, các đầu đao cong, trang trí hình hoa văn thực vật.

Hai bên nhà Chính ngự trong và ngoài có 4 ngôi nhà vuông nhỏ, kiểu hai tầng 8 mái với các góc đao cong ngược lên.

Khu kiến trúc chính của đình có quy mô hình chữ “đinh”, gồm Đại đình và Hậu cung. Toà Đại đình gồm 5 gian 2 dĩ, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Toà Hậu cung xây dọc gồm 4 gian có kết cấu đơn giản.

Ngoài những phần kiến trúc chính được quy hoạch tập trung thì kiến trúc của đình Tây Tựu còn có Văn chỉ, nơi thờ các vị tiên hiền khoa bảng. Các kiến trúc này nằm sát nhau về bên phải sân đình.

Đối diện về bên trái, sát dòng sông Nhuệ có nhà Thuỷ toạ, trung tâm tổ chức của hội thi bơi Đăm. Nhà Thuỷ toạ 3 gian, ăn móng sâu xuống lòng sông.

Hệ thống những kiến trúc bộ phận của đình Tây Tựu đã cho thấy quy mô bề thế của khu kiến trúc và sự gắn bó mật thiết của nó với hội bơi Đăm truyền thống.

Tổng thể khu kiến trúc này đã tạo ra sự khác biệt độc đáo của ngôi đình cổ Tây Tựu.

Theo quan niệm truyền thống, miếu là nơi ngự thường xuyên của Thần hoàng làng, nên thường có quy mô kiến trúc nhỏ hơn. Miếu Tây Tựu xây dựng sát bờ sông và cách đình khoảng 1.000m. Vị trí này rất hợp với các đám rước trọng thể, đưa vị Thành hoàng từ miếu về đình và cuộc thi bơi thuyền trong những ngày hội hàng năm của địa phương.

Hàng năm, hội bơi Đăm diễn ra trong hai ngày 9 và 10 tháng ba âm lịch. Đây là lễ hội truyền thống - hội đua thuyền được tổ chức rất trọng thể, gắn liền với di tích đình, miếu Tây Tựu.

Đình, miếu Tây Tựu đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1993.

Tam quan của đình được xây kiểu Nghi môn, dạng trụ biểu kết hợp với các mảng tường lửng hợp thành. Trên cột trụ có đắp nổi hình trái dành và tứ linh.

Hai dãy nhà Tả - Hữu vu nằm đối diện song song qua sân đình.

Tòa Hậu cung đình Tăng Non gồm 3 gian chạy dọc xây tường gạch bao quanh, đầu hồi bít đốc, có đao cong. Kết cấu kiến trúc được làm theo kiểu chồng rường giá chiêng. Trang trí tập trung chủ yếu ở mặt bẩy hiên câu đầu với mảng hoa văn rồng, phượng, hoa dây mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ XIX. Gian ngoài của Hậu cung là nơi tế lễ, gian giữa được xây bệ thờ cao để bày đồ khí tự, gian trong làm sàn gỗ cao tạo thành cung cấm. Trên sàn đặt bốn cỗ ngại bài vị của các vị thần được thờ.

Đình hiện còn lưu giữ một bộ kiệu mui luyện chạm rồng, một cửa võng điêu khắc nghệ thuật thế kỷ XIX, 7 đạo sắc phong thần và một cuốn thần phả ghi sự tích của Linh Lang đại vương và Lã Nam công chúa.

Đình Tăng Non đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1991.

Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01

Bài liên quan
  • Đình, nghè Mai Động
    Đình Mai Động được khởi dựng từ lâu đời. Trước kia đình thuộc trại Mai Động, huyện Thanh Đàm, sau là làng Mai Động, huyện Thanh Trì, nay làng phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
(0) Bình luận
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
  • Bảo tàng Binh chủng Thông tin (quận Ba Đình)
    Bảo tàng Binh chủng Thông tin thuộc loại hình bảo tàng lịch sử chuyên ngành quân sự, là thể chế văn hoá, có chức năng bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử Binh chủng Thông tin liên lạc nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hoá của cán bộ, chiến sĩ trong Binh chủng và nhân dân, bạn bè quốc tế.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Đình, miếu Tây Tựu
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO