Mô tả khái quát:
Cổng làng có tên chữ Hán là Đại Từ Nghĩa Dân, dân thường gọi là Cổng Tiền.
Ở cả hai phía đầu làng Đại Từ đều xây 2 cổng làng. Tại đầu làng có kiến trúc thượng gia hạ môn, viết chữ Hán và Việt, 2 công trình này nhằm kỷ niệm 45 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hợp tác xã Đại Từ (12/1/1958 12/1/2003).
Tín ngưỡng - lễ hội hàng năm:
Làng Đại Từ thờ ông Bảo Ninh làm Thành hoàng. Ông Bảo Ninh vốn là học trò thuỷ thần của Chu Văn An đã vâng lời thầy trái lệnh trời làm mưa cứu dân nên bị chém chết, xác nổi trên sông. Cả tổng Hoàng Liệt tôn ông Bảo Ninh làm Thành hoàng.
Làng Đại Từ rất tự hào bởi chữ Đại Từ Nghĩa Dân do triều đình ban tặng bởi công đức chia sẽ khó khăn với xã hội. Năm 2003, khi xây cổng làng, đã viết câu đối:
Chính nghĩa tự ngàn xưa với chữ vua ban càng rực sáng Đại Từ thời đổi mới theo lời Bác dạy mãi vươn cao.
Ý nghĩa của chữ “Đại Từ Nghĩa Dân”
Năm 2003, kỷ niệm 45 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đại Từ, cùng một lúc làng Đại Từ hoàn thành ở hai phía đầu làng (phía ra Quốc lộ 1) và cuối làng (phía ra khu biệt thự Linh Đàm) hai cái cổng làng đồ sộ. Đây là hai cổng có độ cao, độ rộng, phù hợp với nếp sống đô thị hoá hiện hành. Tuy nhiên quan sát kỹ tại mỗi cổng đều có sự khác nhau. Đó là cổng ở phía đầu làng có thiết kế “thượng gia hạ môn” rõ rệt. Phía ngoài mặt cổng có chữ Làng Đại Từ và đôi câu đối đã dịch ra Việt văn:
Chính nghĩa tự ngàn xưa với chữ vua ban càng rực sáng, Đại Từ thời đổi mới theo lời Bác dạy mãi vươn cao.
Phía sau cổng làng là dòng chữ Đại Từ Nghĩa Dân và đôi câu đối chữ Nôm viết theo ý trong chữ Việt.
Còn chiếc cổng ở cuối làng, trên đường thông với khu Linh Đàm cũng có phần mái nhưng là mái giả, không chia thượng gia hạ môn. Cái khó cho người mới đến Đại Từ là tại sao lại có dòng chữ Đại Từ Nghĩa Dân, vua nào đã ban chữ này. Các cụ cao tuổi ở đây nói: chúng tôi cũng chỉ biết ghi lại, chưa biết vua nào đã ban. Sự tích kể rằng xưa ở đầu làng Đại Từ có cầu Tiên, đó là nơi mà các vị tiên thường tụ tập, không hiểu vì lý do gì mà ở đầu làng các cô tiên đã để lại hai bầu vú. Từ đó người dân Đại Từ thường phân sẻ dòng sữa của mình làm đôi, cho con mình và cho con nuôi. Lạ một điều là người ta đối với con nuôi rất tận tình, có thể con mình đói sữa, nhưng đã cho con người bú trực thì phải thật no. Chính cái tình thương ấy đã tạo cho dân Đại Từ có nhiều con nuôi. Trong kinh đô Thăng Long xưa, nhà nào nuôi con vất vả, tìm về Đại Từ để xin bú, xin nuôi hộ là cháu bé khoẻ lên. Đời này qua đời khác, tập tục nuôi con nuôi đã làm cho nhiều người Đại Từ trở thành mẹ nuôi hiền thảo, nổi tiếng, được vua ban khen 4 chữ: “Đại Từ Nghĩa Dân” (dân làng Đại Từ có nghĩa).
Người ta cùng kể một giai thoại: Năm 1958 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm, mọi người e sợ tấm biển vua ban là phong kiến nên định bỏ đi, nhưng chính Cụ Hồ đã đề nghị dân phải giữ lại, để tôn trọng cái nghĩa của người Đại Từ. Ngày nay làm lại cổng làng, cụ Vũ Tuấn Sán là người đặt ra câu đối này, và cụ Vũ Khiêu là người thẩm định, thông qua để làng viết lên.
Về tín ngưỡng, cũng như các làng vùng Hoằng Liệt xưa, Đại Từ thờ Bảo Linh Thượng đẳng tôn thần và hàng năm lễ hội theo cùng các thôn xã, trong vùng chịu ơn mưa móc của vị thần xưa.
Tại Nhà văn hoá phường Đại Kim, có bày một bức tượng do nhà điêu khắc Vũ Tiến tạc bằng gỗ quý: tượng cao gần 3m ghi hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Hợp tác xã Đại Từ ngày 12/10/1958, bức tượng này được tạc năm 1983.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01