Văn hóa – Di sản

Bà Huyện Thanh Quan – thi nhân muôn đời

Nguyễn Vinh Phúc 21/11/2023 09:44

Về tiểu sử bà, các sách cũ đều không ghi được mấy, thậm chí tên thật cũng không! Như Văn đàn bảo giám (1926) chỉ ghi được: “Bà là con ông đại nho họ Dương, người làng Nghi Tàm”.

ba-huyen-thanh-quan.jpeg
Tranh minh họa Bà Huyện Thanh Quan.

Mãi tới thập kỷ 60 của thế kỉ XX, các ông Tảo Trang, Bùi Văn Nguyên mới đưa ra giả thuyết mới: bà tên là Nguyễn Thị Hinh, song con ai thì không biết, chỉ đoán là con cháu Nguyễn Lý đỗ thủ khoa năm 1783, là Đốc học Sơn Tây và Hải Dương. Về chồng bà thì Văn đàn bảo giám ghi tên là Lưu Nghi, người làng Nguyệt Áng (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Cử nhân năm 1821. Song giả thuyết mới lại cho rằng chồng bà là Lưu Nguyên Ôn cũng người làng Nguyệt Áng, đỗ Cử nhân năm 1828, làm Tri huyện Thanh Quan, sau bị cách chức chuyển về kinh đô Huế làm một chức quan nhỏ. Ông này sinh năm 1804, mất năm 1847.

Vậy tài liệu nào chính xác - đó là vấn đề cần nghiên cứu thêm.

Có điều là sách Quốc triều đăng khoa lục có ghi Lưu Nghi đỗ Cử nhân 1821, làm Tri huyện, còn về Lưu Nguyên Ôn thì chỉ ghi đỗ Cử nhân năm 1828.

Cũng theo Văn đàn bảo giám thì Bà Huyện Thanh Quan có tiếng là hay chữ, từng được mời vào Huế giữ chức Cung trung giáo tập, là chức phụ trách việc dạy cho các công chúa và phi tần: “Vua Tự Đức có ban thơ chữ và thơ Nôm, bà phụng hoạ cũng nhiều, vua rất quý trọng”...

Tuy vậy, ngày nay chỉ còn giữ được của bà một số bài thơ Nôm, tên gọi có lẽ do người đời đặt cho, như các bài Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chơi chùa Trấn Bắc, Tức cảnh chiều thuChiều hôm nhớ nhà.

Cả năm bài đều là thất ngôn bát cú, đều rất mực đúng luật thơ Đường, bằng trắc nghiêm chỉnh.

Ngoài ra thơ bà trang trọng, giầu nhạc tính, sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, dùng từ Hán - Việt có mức độ, tao nhã, cao sang, có tính chất cổ điển.

Cả năm bài đều gắn với cảnh vật, thiên nhiên. Cảnh vật, thiên nhiên trong thơ bà Thanh Quan không tươi tắn, rộn ràng như thơ Xuân Hương mà bàng bạc sắc màu u hoài. Trong năm bài thì ba bài là cảnh chiều tà:

- Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

- Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

(Qua đèo Ngang)

- Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

(Thăng Long hoài cổ)

Hai bài còn lại tuy không nêu thời gian cụ thể nhưng cũng ảm đạm:

- Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu

(Chơi chùa Trấn Quốc)

- Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa

(Tức cảnh chiều thu)

Trong cái khung thời gian chiều hôm muộn mằn đó, mọi vật như ủ ê, quạnh quẽ, lẻ loi.

- Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

- Gác mái ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

- Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,

Khen ai khéo vẽ cảnh tiểu sơ.

- Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

Lom khom, lác đác, viễn phố, cô thôn, gió cuốn, sương sa, bước dồn, bay mỏi, thánh thót, tiêu sơ... đều là những chữ tượng hình lên cái bé bỏng, rời rạc, xa vời, vắng lặng và cô liêu.

Như vậy là vì cảnh gắn với tình, trước hết là tình của tác giả, mà tình cảm nổi nhất ở thơ Thanh Quan là sự “chạnh niềm cố quốc”, “nhớ nước đau lòng”. Thật cũng lạ, lúc này nước ta chưa mất, còn độc lập. Vậy cái cố quốc, cái nước cũ mà tác giả thấy đau lòng khi nghĩ tới là nước nào vậy?

Có lẽ đó là một khái niệm đất nước trừu tượng, đại diện cho quá khứ và tốt đẹp hơn hẳn cái hiện tại (tức là dưới triều nhà Nguyễn). Và như vậy đây chính là tâm trạng của cả một lớp người đã nhận thức ra cái không được lòng dân của chính quyền nhà Nguyễn thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, song đồng thời họ cũng tự thấy là bất lực không làm được gì để thay đổi.

Bất lực nên chỉ biết than vãn:

- Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

- Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta

Một mình biết một mình hay và cũng chỉ biết san sẻ nỗi niềm với... chính mình.

Đó chính là tâm trạng của cả một lớp sĩ phu trong giai đoạn ngột ngạt sắp cáo chung chế độ phong kiến.

Nói tóm lại, nội dung thơ Bà Huyện Thanh Quan là tâm sự của một người không bằng lòng với thời cục, mong mỏi sự tốt đẹp như đã có ở một thời xa xôi trước đây. Nhưng hình thức thơ của bà thì vào hạng “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Thơ Đường luật làm đến như vậy thì chẳng khác nào thơ của các thi sĩ đời Thịnh Đường.

Xin lấy bài Thăng Long hoài cổ làm dẫn chứng. Thực ra cái tên là do người đời sau đặt ra, cũng như các tên Qua đèo Ngang, Chơi chùa Trấn Bắc... Song nội dung bài thơ thì đúng là giãi bày nỗi lòng hoài cổ về cố đô Thăng Long.

Tạo hoá gây chi cuộc hi trường. Câu mở đầu là một câu hỏi bâng quơ vì hỏi trời và đất tức là chẳng hỏi ai cả, nhưng nội hàm câu hỏi thì là cả một vấn đề thế sự. Vì trời đất bày đặt ra làm gì như một tấn tuồng ở Thăng Long thành đã bị bỏ rơi này. Đúng là tấn tuồng bởi tác giả đã chứng kiến sự đổi thay thời thế quá nhanh quá lẹ ở dải đất cố đô như các lớp lang diễn ra trên chiếu chèo, chiếu tuồng ở giữa một sân đình. Nguyễn Hữu Chỉnh, Võ Văn Nhậm, Trịnh Lệ, Trịnh Bồng múa may trên sân khấu chính trị không quá hai năm. Rồi quân Thanh sang, quân Tây Sơn diệt Mãn Thanh, vua Quang Trung anh hùng nhưng mệnh đoản. Gia Long phá toà nhà thành cổ nghìn tuổi xây lại thành kiểu Tây và bao nhiêu “nguy Tây Sơn” bị hại. Rồi các trấn có từ ngàn xưa phút chốc bị xoá bỏ, thay bằng các tỉnh mới tinh. Chẳng là hí trường, là tấn tuồng thì còn là gì nữa. Cho nên Bấy lâu thấm thoát mấy tinh sương. Bấy lâu là bao lâu? Một tháng? Một năm? Một thế kỷ? Hay vài ba trăm năm? Bấy lâu là một khái niệm vô định về thời gian. Bao nắng sớm, sương chiều tuần hoàn kế tiếp nhau, bỏ mặc sự quan tâm hay không của con người. Chỉ biết là tháng ngày đằng đẵng đổi thay một cách vô tình trước khách Thăng Long hoài cổ. Chỉ biết là Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo. Thuở nào Thăng Long lọng tía, tán vàng, ngựa xe tấp nập lại qua qua lại trên các nẻo đường hoa hoè hoa liễu, nay vắng ngắt. Dấu chân ngựa và dấu bánh xe cũ càng nay đã im lìm bị cỏ úa vàng trong gió lạnh đầu thu bao phủ, dấu hiệu của một lãng quên đến tội nghiệp. Và Nền cũ lâu đài bóng tịch dương là chỉ các cung điện cũ đã bị phá huỷ (như Nguyễn Du từng nhận xét: Thiên niên cự thất thành quan đạo - Ngàn năm cung lớn thành đường cái), chỉ còn sót lại vài cái nền trơ trẽn tràn ngập bóng mặt trời sắp lặn, với ánh nắng hoàng hôn vàng vọt cô liêu. Ánh nắng thoi thóp dật dờ như thương tiếc, cố níu giữ lại một hình ảnh huy hoàng một thuở.

Cho nên Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt/ Nước còn cau mặt với tang hương. Nhũ viên gạch đá vô tình, tĩnh vật, vô tri vô giác chẳng đoái hoài tới sự thay đổi ở cố đô mà lại như thách thức sự qua đi của năm tháng. Tuế nguyệt với bao mất mát được thua, đá chẳng cần gì. Riêng có mặt nước của sông hồ còn có tình, xao động nên cảm thông được sự biến đổi của thời gian và quang cảnh, còn tỏ ra đau lòng trước sự phũ phàng của cuộc thế. Vì vậy mà Nghìn năm gương cũ soi kim cổ/ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Lịch sử chính là tấm gương để cố nhân soi vào đó mà suy ngẫm, mà ứng xử để vơi đi nỗi đau tan ruột nát lòng. Một bài thơ luật cực kỳ nghiêm chỉnh và một tấm lòng hướng về một ngày xưa mà tác giả thực sự trân trọng, luyến lưu.

Cuối cùng có lẽ cũng cần kể lại hai giai đoạn trong đời thường của bà để có thể hiểu thêm về nhà thơ nữ Hà Nội đặc sắc đầu thế kỷ XIX này.

Chuyện kể rằng khi ông huyện Thanh Quan đi vắng, bà thường vẫn nhận đơn thay chồng. Một hôm có một ông Hương cống mới đỗ, đệ đơn xin làm thịt trâu để ăn khao. Lúc ấy đang mùa cày cấy, theo lệnh trên không được mổ trâu, nhưng vốn là một nhà thơ nên bà huyện cũng chiếu cố ông Cử tân khoa, lại cũng muốn nhân dịp đùa ông cử bằng văn tự chơi, Bà liền cầm bút phê vào đơn hai câu rằng:

Người ta thì chẳng được đâu,

Ừ thì ông cống làm trâu thì làm.

Một hôm khác cũng gặp lúc quan huyện đi vắng, có người phụ nữ tên Nguyễn Thị Đào đưa đơn xin bỏ chồng vì chồng đi biệt tích. Bà liền phê vào đơn bốn câu:

Phó cho con Nguyễn Thị Đào,

Nước trong leo léo cắm sào đợi ai?

Chữ rằng “xuân bất tái lai”,

Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.

Cô Thị Đào cứ thế mà đi lấy chồng. Ai dè ít lâu sau anh chồng cũ trở về. Anh ta đâm đơn kiện quan huyện. Và thế là quan huyện bị cách chức vì đã để vợ dúng vào việc quan. Chuyện kể như vậy thực hư thế nào chưa rõ. Chỉ biết là qua hai chuyện, Bà Huyện Thanh Quan hơi coi thường nho sĩ và ưu ái với phái nữ./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
  • Phạm Ngũ Lão – anh hùng, nhà thơ
    Phạm Ngũ Lão quê làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Ông vừa là môn khách, vừa là con rể của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Con gái của ông được vua Trần Anh Tông nạp vào cung và phong làm Thứ phi. Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, sử gia đầu thế kỷ XIX là Phan Huy Chú, khi lựa chọn các “Tướng có danh tiếng và tài giỏi”, ở đời Trần (1226-1400), có 4 người, Phạm Ngũ Lão, được xếp tề danh với Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật và Trần Khánh Dư.
(0) Bình luận
  • “Hồi sinh” ở di tích lịch sử cấp Quốc gia A So Airport
    Sau khi được khắc phục hậu quả chất độc hóa học, khu vực sân bay A So (huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế) đã đảm bảo an toàn và tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
  • Việt Nam đoạt giải thưởng quốc tế về bảo tồn di sản văn hóa châu Á
    Tại cuộc thi “Bảo tồn di sản văn hóa châu Á và các giải pháp bền vững” do UNESCO tổ chức tại thành phố Kuching, Sarawak, Malaysia, sinh viên Việt Nam đã xuất sắc đoạt giải...
  • Huế đề nghị công nhận 4 hiện vật quý thời Nguyễn là Bảo vật Quốc gia
    Chuông Ngọ Môn, Ngai hoàng đế Duy Tân, Phù điêu bằng đá thời Minh Mạng và Tượng rồng thời Thiệu Trị đã được lập hồ sơ trình cơ quan chuyên môn thẩm định để công nhận bảo vật Quốc gia.
  • 45 cây trăm tuổi vừa được công nhận cây di sản Việt Nam
    Hội đồng Cây di sản Việt Nam (Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam) vừa tổ chức họp và xét duyệt 45 cây lâu năm của 6 tỉnh, thành phố đủ điều kiện được công nhận là cây di sản Việt Nam.
  • Giới thiệu gần 200 hình ảnh, tài liệu lưu trữ gốc về tiếp quản Thủ đô
    Nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2024), sáng 24/9 tại Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước tổ chức sự kiện “Giới thiệu tài liệu lưu trữ quốc gia và Tiếp quản Thủ đô”. Đây là minh chứng góp phần tái hiện những thời khắc lịch sử hào hùng của dân tộc và Thủ đô từ khi Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết.
  • Từ ngôi đình làng Vạn Phúc
    Họa sĩ Nguyễn Nghiêm thật có lý, khi chọn tấm ảnh đình làng Vạn Phúc, như một biểu tượng, để trình bày bìa cuốn “Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Vạn Phúc”. Xưởng in Viện Điều tra - Quy hoạch rừng, với máy ốp - sét hiện đại đã thể hiện được gần như trọn vẹn, đường nét và màu sắc, hơn thế nữa, tôn lên vẻ đẹp vốn có của ngôi đình, từ búp bàng non đến lớp rêu phong cổ kính...
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Mấy đặc trưng trong thơ Thăng Long - Hà Nội
    Để xác định những khác biệt của thơ Hà Nội so với thơ các địa phương khác cần nhìn lại cả quá trình phát triển của thơ từ thuở lập kinh đô, phải tính đến những tác phẩm không chỉ của những nhà thơ sinh ra và trưởng thành ở Hà Nội, mà còn của những nhà thơ từ những vùng quê khác về sống ở Thăng Long. Và chính họ, những nhà thơ bị (hoặc được) phong cách sống, phong cách thơ của Hà Nội đồng hóa, vốn đông đảo hơn các nhà thơ nguyên quán Hà Nội, đã đóng góp nhiều hơn để tạo nên phong cách trữ tình cho thơ đất đế đô.
  • [Podcast] Truyện ngắn: Trước mặt là dòng sông
    Dãy phòng trọ hướng về dòng sông. Trước đây, mảnh đất này là ao rau muống, khi khu công nghiệp hình thành, chủ nhà lấp đầy xây phòng cho thuê. Những căn phòng được công nhân ưa thích, ở đây mỗi chiều, từ trước hiên nhà họ có thể ngắm dòng sông để tìm lại chút khung cảnh của quê nhà...
  • Kiến trúc Thủ đô (1954 - nay): Dấu ấn qua mỗi chặng đường
    Sau ngày tiếp quản (10/10/1954), từ một thành phố nhỏ bé, với lượng dân số ít, Hà Nội đã vươn tầm trở thành thành phố lớn trong khu vực và thế giới với không gian kiến trúc đô thị đa hệ, giàu bản sắc và phát triển theo hướng văn minh hiện đại. Nhìn lại chặng đường 70 năm qua, có thể thấy ngành kiến trúc quy hoạch xây dựng đã có những đóng góp đáng kể và để lại nhiều dấu ấn. Đây chính là những bước đệm, tạo đà cho sự phát triển của đô thị Hà Nội trong tương lai.
  • Tôn vinh “Thương hiệu Vàng nông nghiệp Việt Nam” năm 2024
    Ngày 12/10, tại Hà Nội, Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã tổ chức Lễ tôn vinh “Thương hiệu Vàng nông nghiệp Việt Nam”, vinh danh các sản phẩm đóng góp tích cực cho ngành nông nghiệp Việt Nam.
  • Tuần sách kết nối – Ehon Week: Thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Việt Nam
    “Tuần sách kết nối – Ehon Week” sự kiện thu hút hàng nghìn độc giả, chính thức khai mạc tại Tòa nhà Văn hóa và Quan hệ Công chúng thuộc Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Ehon Week diễn ra từ ngày 14 đến ngày 22 tháng 10 năm 2024.
Đừng bỏ lỡ
  • [Podcast] Ô Quan Chưởng – Cửa ô duy nhất còn lại của kinh thành Thăng Long
    Ô Quan Chưởng là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh Kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay. Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của thành Thăng Long cũ, là di tích đã được xếp hạng năm 1995. Ngày nay hầu hết các cửa ô khác chỉ còn lưu lại địa danh sau này trở thành tên gọi của phường phố như Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Giấy ….
  • Chuyện ở hàng nước mắm
    Những năm 1958 - 1959, Hà Nội chưa bước vào nền kinh tế bao cấp, các cửa hàng tư nhân lâu đời vẫn hoạt động buôn bán ở khắp các phố phường. Dạo ấy, tôi đã bảy, tám tuổi nên thường được bà ngoại và mẹ sai đi mua những đồ lặt vặt cho gia đình.
  • “Hồi sinh” ở di tích lịch sử cấp Quốc gia A So Airport
    Sau khi được khắc phục hậu quả chất độc hóa học, khu vực sân bay A So (huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế) đã đảm bảo an toàn và tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
  • Chiều 14/10, Chủ tịch UBND TP Hà Nội sẽ đối thoại với thanh niên
    Trong các ngày 14 và 15/10 sẽ diễn ra Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp Thanh niên Thủ đô Hà Nội lần thứ 8, nhiệm kỳ 2024 - 2029 tại Hà Nội với sự tham dự của 400 đại biểu thanh niên ưu tú đại diện cho các tầng lớp thanh niên.
  • Ba Vì miền mây thẳm
    Tạp chí Người Hà Nội trân trọng giới thiệu tới quý độc giả bài thơ Ba Vì miền mây thẳm của tác giả Nguyễn Việt Chiến nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024).
  • Cuốn sổ tay du lịch bỏ túi về Tam Đảo
    Với mong muốn quảng bá rộng rãi hơn nữa giá trị điểm đến du lịch, văn hóa tiềm ẩn của khu du lịch Tam Đảo đến du khách trong và ngoài nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật vừa ra mắt bạn đọc cuốn sách “Tam Đảo - Đất linh thiêng, miền du lịch” của tác giả Nguyễn Thái Bình và Phạm Hoàng Hải.
  • Hòa nhạc đặc biệt kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Peru
    Kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam-Peru, một buổi trình diễn âm nhạc đặc sắc mang tên “Q' pop & Quechua Concert” sẽ được tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội vào ngày 23/10.
  • Đấu giá tranh "Những huyền thoại từ trường Mỹ thuật Đông Dương" của nhà Milon
    Phiên đấu giá "Những huyền thoại từ trường Mỹ thuật Đông Dương" của nhà Milon sẽ chính thức diễn ra vào 17 giờ ngày 12.10 tại khách sạn Sofitel Legend Metropole, 56 Lý Thái Tổ, Hà Nội.
  • Cần nắm vững quy định Luật Thủ đô 2024 để triển khai thi hành Luật đồng bộ, thống nhất, hiệu quả
    Sáng 11/10, Thành ủy Hà Nội tổ chức Hội nghị phổ biến, quán triệt Luật Thủ đô 2024 (Luật số 39/2024/QH15). Hội nghị diễn ra theo hình thức trực tiếp tại Trụ sở UBND Thành phố và kết nối tới các điểm cầu của 30 quận, huyện, thị xã; Sở, Ngành của Thành phố. Phó Bí thư Thành ủy - Chủ tịch UBND Thành phố Trần Sỹ Thanh chủ trì Hội nghị.
  • Nhà văn Hàn Quốc giành Giải Nobel Văn học 2024
    Chiều 10/10 (theo giờ Việt Nam), Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển công bố giải Nobel Văn chương 2024 được trao cho Han Kang - nhà văn người Hàn Quốc.
Bà Huyện Thanh Quan – thi nhân muôn đời
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO