“Kiếp mưa” - những trang lòng từ trải nghiệm và thấu cảm
Là một cây bút quen thuộc với bạn đọc ở thể loại văn xuôi qua các tập truyện “Những nẻo đường tu”, “Người quê”, “Đường chiều”, “Vụn vặt chuyện nhà”, “Phận đàn bà”… nhiều năm trở lại đây Y Mùi rẽ lối sang thơ. Tập thơ “Kiếp mưa” ra mắt bạn đọc mới đây như một dấu mốc đáng nhớ trong hành trình sáng tạo của nữ nhà văn.
“Kiếp mưa” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2025 gồm 78 bài thơ, được tác giả viết trong khoảng sáu, bảy năm gần đây. Tựa đề “Kiếp mưa” chứa đựng triết lý nhân sinh sâu xa. Nhà phê bình Vũ Nho khi đọc tập thơ đã gợi mở mối liên hệ giữa “kiếp người” và “kiếp mưa”. Ông cho rằng “mỗi phận người cũng như hạt mưa. Sinh ra may rủi, hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”. Với ông, “Y Mùi viết tiếp” tiếng nói của Trần Quang Quý, người bạn đời thi sĩ, bằng những câu thơ: "Một kiếp mưa đã hóa thành mây trắng/ Còn một kiếp mưa vẫn đang đợi nắng/ Ai người hong khô?".
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến nhận định “Kiếp mưa” của Y Mùi như “lời gọi hong khô phận người”. Biểu tượng mưa trong thơ Y Mùi, theo ông là một ẩn dụ kép: vừa là nước mắt, vừa là dòng đời trôi dạt. “Một kiếp mưa đã hóa thành mây trắng” là sự chuyển hóa của nỗi đau thành thanh thản, còn “Còn một kiếp mưa vẫn đang đợi nắng” lại cất lên tiếng hy vọng.
.png)
Trong cái nhìn của Nguyễn Việt Chiến, hình tượng người đàn bà trong thơ Y Mùi mang “một bản lĩnh mềm ở lòng trắc ẩn, bản lĩnh ở năng lực đặt nỗi riêng trong trật tự đạo lý lớn hơn”, là người “luôn trăn trở, thao thức vì nỗi người, nỗi đời và nỗi buồn riêng”. Ở đó, người đàn bà hiện ra trong nhiều vai: là con gái, là vợ, là mẹ, và cả “em” đối diện chính mình, nhưng nhất quán ở phẩm chất chịu thương chịu khó mà vẫn sáng suốt, không bi lụy mà thấu suốt lẽ sinh diệt.
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến chia sẻ, trong tập thơ này ông đặc biệt ấn tượng với bài thơ “Người đàn bà bên mộ chồng không khóc” “như một cấu trúc lặp được Y Mùi vận hành như một điệp khúc thiền”. Ông dẫn ra minh chứng: “Ở đây, không khóc không phải vì cạn nước mắt, mà vì đã hiểu “chết chưa phải là hết”, và “duyên đã tan nhưng nợ vẫn còn”, khi “thác là về với Cõi Cao Xanh”. Điểm chạm xúc giác “bà vuốt ve khuôn mặt chữ điền trong di ảnh chồng bằng bàn tay thô ráp” là một cao điểm nghệ thuật, khi chân dung người đàn ông “chữ điền” vững chãi được tái sinh trong bàn tay thân thiết của người vợ. Người đàn bà trong bài không phải là kẻ chịu đựng bị động, mà là chủ thể của một sự hiểu biết - thứ hiểu biết giúp gia đình đi qua tang thương bằng sự bình tâm.
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng gọi “Kiếp mưa” là “điệu buồn thanh lọc tâm hồn”. Theo ông, thơ Y Mùi thấm nhuần Đạo mà không giảm hay mờ nhạt chất Đời. Ở tuổi thất thập, người thơ trong chị thấm nhuần tính chất “cõi tạm” của đời người, nhận ra những kiếp đoạn (sát-na) chẳng ai giống ai nhưng đều chung một kết cục, đi về miền mây trắng, cao xanh, bất tử. Điệu cảm chính của “Kiếp mưa” chính là điệu buồn, nhưng đó là điệu buồn mang gương mặt đẹp, không bi lụy, đường cùng hay bế tắc”.
Theo nhà thơ Nguyễn Thế Kiên, chảy suốt trong mạch chữ của Y Mùi là những trang lòng mộc mạc, dung dị, nhưng tinh tế và lay gợi; là sự kiến giải và tương tác cùng cuộc sống qua ngôn ngữ của một nữ văn nhân. “Dường như Y Mùi không cố tình làm thơ, bởi vậy nên chị không bị câu chữ dắt vào mê lộ của chúng bằng những thuật ngữ hay những thủ thuật trong nghề chữ. Thơ chị toàn những câu chữ “thật như đếm” nhưng lay gợi người đọc, bởi nó được cái cõi lòng chất chứa của kiếp người đẩy lên mặt chữ. Quả vậy, những trang lòng hun hút mở trong thầm lặng của kiếp người mới là nơi chốn mà thơ thường được sinh ra”, nhà thơ Nguyễn Thế Kiên nhận định.
Ở góc nhìn khác, nhà thơ Ngô Đức Hành cho rằng thơ Y Mùi mang “vị quê” đằm thắm. Ông dẫn ra minh chứng từ “Bến sông quê”, “Có một góc chợ quê”, “Đưa con về thăm quê ngoại”, “Quà quê”, “Thăm đồng”, “Trò chuyện với mẹ chồng”, “Trước thềm nhà cũ”, “Về với sông Đà”, “Đợi mùa”, “Chốn cũ”… Tấm lòng thơ của Y Mùi “giản dị như khoai, sắn, tương, cà, như câu dân ca bà hát”. Từ miền ký ức quê hương, Y Mùi viết nên những câu thơ vừa đôn hậu vừa day dứt: “Đồng khô/ Ngày hạn/ Gầu sòng không dây/ Em tát/ Lòng mương cạn rát/ Nước đâu không về” (Đợi mùa); hay “Này ngô, này sắn, này khoai/ Lót lòng bao đận giêng hai đợi mùa/ Cao lương mĩ vị cũng thua/ Đây ngô, đây sắn bạn mua chợ làng” (Quà quê). Với Y Mùi, quê hương chính là nơi chất chứa ký ức thiện lương, ru tâm hồn của những người có cố thổ...
Điều khiến “Kiếp mưa” có sức ngân dài chính là cách Y Mùi biến những cảm xúc riêng tư thành mối đồng cảm rộng lớn với người và đời. Thơ chị là lời thủ thỉ, nén lại nhưng càng đọc càng lan tỏa. Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến phân tích: “Khi “Kiếp mưa” biết đợi nắng, khi bên mộ chồng “không khóc” vì đã biết, khi trước bàn thờ cha lạy mà tri ân, khi đứng trước mẹ già nức nở bằng miếng trầu khô… thì người đàn bà trong thơ Y Mùi đã vượt qua vai nạn nhân để trở thành chủ thể của thương, của hiểu và chuyển hóa.”
Tập thơ vì thế không chỉ ghi dấu sự trở lại của một cây bút văn xuôi trong vai trò thi sĩ, mà còn mở ra một thế giới tinh thần nữ giới vừa thấu hiểu vừa vị tha, vừa yếu mềm mà kiên cường. “Điệu buồn có gương mặt đẹp” ấy chính là vẻ đẹp của một tâm hồn đã đi qua khổ đau để tìm lại bình an. Khi mưa đã thành mây, khi nỗi buồn không còn là nỗi bi lụy thì “Kiếp mưa” trong thơ Y Mùi không còn là phận chịu đựng mà là hành trình tìm nắng, hành trình vượt lên chính mình./.




.jpg)















.jpg)

