Tú Mỡ: “Màu mỡ vì chưng ra cả bút”

Vũ Quần Phương| 04/01/2020 10:48

Tú Mỡ tên thật là Hồ Trọng Hiếu. Sinh năm 1900. Như vậy, ông có sáu năm được thở chung một bầu khí quyển với nhà thơ Tú Xương yêu kính. Thuở nhỏ, Hồ Trọng Hiếu học chữ Nho, ông nội dạy. Học xong Tam tự kinh thì ông nội mất, Trọng Hiếu theo học chữ quốc ngữ ở trường Hàng Bông (nay không còn), trường Hàng Vôi (trường Nguyễn Du bây giờ) và trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Chính ở cái trường Bưởi này, Tú Mỡ đã “anh hoa phát tiết” tài làm thơ.

Tú Mỡ: “Màu mỡ vì chưng ra cả bút”

Tú Mỡ tên thật là Hồ Trọng Hiếu. Sinh năm 1900. Như vậy, ông có sáu năm được thở chung một bầu khí quyển với nhà thơ Tú Xương yêu kính. Thuở nhỏ, Hồ Trọng Hiếu học chữ Nho, ông nội dạy. Học xong Tam tự kinh thì ông nội mất, Trọng Hiếu theo học chữ quốc ngữ ở trường Hàng Bông (nay không còn), trường Hàng Vôi (trường Nguyễn Du bây giờ) và trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Chính ở cái trường Bưởi này, Tú Mỡ đã “anh hoa phát tiết” tài làm thơ.

Năm 1918, đỗ bằng thành chung (tương đương bằng tốt nghiệp Phổ thông cơ sở bây giờ), Hồ Trọng Hiếu vào làm ở Sở Phi năng (Sở Tài chính). Sau hai năm làm việc, những điều chướng tai gai mắt trong nhiệm sở, ngoài xã hội, lại kích thích bằng cái mầm hài hước có sẵn trong ông. Ông viết bài Bốn cái mong của thầy phán đăng trên báo Nam Phong. Đây là những bài tự diễu cái nghề công chức cạo giấy của mình. Tác giả đã vẽ rất tài hình hài, tính nết, đến cung cách làm việc của cả một loại người:

Hai buổi đến ung dung ư buồng giấy, số to số nhỏ, 
bày liệt bày la;

Tám giờ ngồi chễm chệ ư ghế mây, mực đỏ 
mực đen, viết chi viết chát
Lỡ buổi đi trưa, nhìn trước, nhìn sau lấm lét rụt rè 
như rắn mồng năm
Lỡ khi lầm lỗi, đứng lên, ngồi xuống băn khoăn ủ rũ 
như diều hâu tháng chạp

Vì tác giả dấu tên nên khi đăng bài này nhiều người lầm tưởng là thơ của Tú Xương. Sự nhầm lẫn ấy cho thấy mức độ thành công của bài thơ. Quả là ở bài thơ này Tú Mỡ đã có được bút pháp tự nhiên và sinh động của Tú Xương. Những chi tiết đưa ra rất đắt, nói được cả diện mạo lẫn thần thái nhân vật. Những khẩu ngữ cũ, những thành ngữ mới dắt nhau rất tự nhiên và cũng rất bất ngờ: Gắt ỏm mắm tôm, Tán nhăng phó mát... Thân phận người công chức khổ trong chế độ cũ, cũng là thân phận tác giả, còn trở đi trở lại trong nhiều bài thơ của Tú Mỡ, tạo nên phần trữ tình đáng quý ở thơ ông. Ở đấy, giọng văn nghịch ngợm cười cợt của Tú Mỡ đã đụng tới cái gì, nói theo Xuân Diệu, như là nước mắt:

Tú Mỡ nghe tên rõ chướng phè
Làm thiên hạ tưởng béo sù ghê
(...) Mà hóa người thon như cái nhái
Té ra mình xác tựa con ve
(...) Màu mỡ vì chưng ra cả bút
Thân hình nên mới ngẳng như que
(Mỡ mà chẳng... mỡ; Giòng nước ngược I)

Từ 1925, Tú Mỡ đăng thơ trên các báo và tạp chí như: Nam Phong, Tứ dân, Việt Nam thanh niên. Nhưng ông thực sự được chú ý là từ năm 1932, khi ông giữ mục Giòng nước ngược trên báo Phong hóa. Cái tên Tú Mỡ được khai sinh với Giòng nước ngược Giòng nước ngược đã thành tên cho tuyển tập thơ tiêu biểu của Tú Mỡ trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội thời Tú Mỡ không còn tính chất giao thời như thời Tú Xương, nó đã đi sâu vào Âu hóa, sự lố bịch vẫn đầy rẫy, có khi còn trắng trợn hơn trước. Tú Mỡ đã thấy, đã nghe, đã cảm nhận được tất cả, tất cả cái ngược đời, cái hài hước của thời thế, của nhân tâm đạo lý và đã giữ nó lại trong thơ mình như một tang chứng lịch sử sống động.

Nguyên một cái Viện dân biểu do thực dân Pháp dựng lên làm một chiêu bài Dân chủ đã bị Tú Mỡ tấn công từ nhiều phía với hàng vài ba chục bài thơ. Tú Mỡ khi ấy chưa có được quan điểm cách mạng đúng đắn của Đảng, nhưng bằng trái tim của một người yêu nước, yêu sự thật, cũng đủ nhận ra cái giả dối bôi bác của trò hề này. Đây là mảng đề tài ông viết rất hào hứng, tính chất trào phúng nằm ngay trong sự việc. Hãy xem cung cách một ông nghị đi họp, bề ngoài rất oách, Áo sa, khăn nhiễu, giày ban. Kính trắng gọng vàng tay cắp cặp da. Và cũng chỉ bề ngoài thế thôi, chứ vào cuộc họp thì ngẩn mặt tần ngần. Ngồi nghe diễn thuyết ngủ dần thiu thiu...

Tú Mỡ đã bắt được những nét phổ biến có tính điển hình của lũ người dốt nát và hãnh tiến này. Nhà thơ cứ mát mẻ mà “tuyên dương công trạng” ông nghị vùng ta:

Gật gù nghe đọc diễn văn
Vì dân ráng sức mấy lần vỗ tay.

Nghe thì cứ nghe, sao phải gật gù. Nhưng có gật gù thì mới tỏ vẻ ta đây hiểu biết. Luôn luôn phải tỏ vẻ thế vì các ông nghị cũng tự biết mình lắm chứ. Cái hài hước đẻ ra từ sự giả dối đó. Văn chương trào phúng thường phát triển khi sự giả dối ngự trị ở ngoài đời. Cái nguyên mẫu ấy cứ dựng nên đã đáng cười rồi, Tú Mỡ nâng nó lên thành hình tượng nghệ thuật bằng một cách chuyền nghĩa bóng sang nghĩa đen của ba chữ bầu nhiệt huyết:

Mỗi năm vất vả mươi hôm
Một bầu nhiệt huyết vẫn ôm kè kè
(Ông nghị đi hội đồng về; Giòng nước ngược)

Thơ Tú Mỡ không gay gắt được như Tú Xương, cũng không thâm trầm được như Nguyễn Khuyến. Nhưng ông lại được cái dí dỏm, có duyên. Không biết có phải để lọt được lưới kiểm duyệt mà Tú Mỡ chọn cho mình giọng thơ ấy không. Ông đả kích làm cho đối tượng đỏ mặt, xấu hổ, chứ không nỡ chôn sống người ta. Ông không đánh ác. Tuy nhiên cứ dí dỏm vậy mà nhiều chỗ rất trúng huyệt. Hãy nghe ông tả cái chuông nghị sự ở Viện dân biểu, lời văn cứ khách quan, như văn “tả chân” của học sinh tiểu học:

Nó cũng kiểu như chuông xe rác
Cũng như chuông của các hàng rong.

Vậy mà có cách nói nào hơn để chỉ ra thực chất rác rưởi của nghị viện bù nhìn và các thứ mồm loe mép giải của lũ tham quyền cố vị nghị viên.

Đối với thực dân Pháp, Tú Mỡ viết không được nhiều, và chưa sướng bằng, khi đả quan lại bù nhìn có lẽ vì chính sách kiểm duyệt của Pháp. Tú Mỡ phải né tránh nhiều, đòn đánh chưa hả. Khi Pháp bị Nhật hất cẳng, sau 9/3/1945 Tú Mỡ cho đăng một loạt bài đả Pháp, nhưng không còn đắc địa nữa, vì bỏ sức lực để đạp một bức tường đã đổ thì cũng chẳng hào hứng gì. Tìm tính chất phản đế trong thơ Tú Mỡ trước Cách mạng nên tìm ở những bài ông đả vào chính sách cai trị của thực dân, vào cái cơ cấu xã hội mà nó tạo ra, cái hủ tục mê tín mà nó nuôi dưỡng, hơn là tìm vào sự đả kích từng tên thực dân cụ thể, việc đó Tú Mỡ sẽ làm trong kháng chiến chống Pháp. Khi xét tới các thứ thuế, Tú Mỡ đã đay lại khẩu hiệu tự do, bình đẳng của thực dân, và tự hào:

Dân mình há chịu kém ai sao!
Tự do bình đẳng tuy thua thiệt
Nhưng đã hơn người cái… thuế cao

Đôi chỗ trong tiếng cười của Tú Mỡ, ta nghe thấy cả tiếng thở dài chua xót. Trong bài “Đại phu... xe hàng” có cái cười đả kích luật lệ đương thời và có nỗi xót thương phận người cùng khổ:

Cu ly cũng phải lấy… bằng
Của tòa Đốc lý chứng rằng… chính tông
Là người da sắt, xương đồng
Khỏe chân, cứng gối, chính dòng kiện nhi,
Danh trong giá sạch như li,
Chẳng khi can án, chưa khi ngồi tù
Bao lần giấy, bấy lần… xu,
Mới làm nên chức đại “phu xe hàng”

Nghệ thuật trào phúng ở bài này khá cao, bởi từ một sự kiện đời sống, Tú Mỡ đã bóc ra được nhiều tầng mâu thuẫn chua chát, đáng cười và đáng xót xa.

Nhiều cảnh đời lố lăng, hài hước, chua chát đã được lưu giữ trong thơ Tú Mỡ. Tú Mỡ có cách viết rất hoạt, thâu tóm nhanh những mặt đối lập của đời sống. Người đọc có cảm tưởng ông viết dễ dàng, đụng đến đâu là gây cười ở đấy. Một cái chuyện đi lọng, long trọng đến bông phèng, trưởng giả đến lố lăng:

Có khi đón các ông to
Các ngài ấy ngự ô tô tân thời
Bốn anh chạy bở hơi tai
Chạy theo vác lọng che ngoài mui xe
Con trâu đi chọi trở về
Linh đình cũng có lọng  che rợp trời
Cưới xin đệ nhất buồn cười
Lợn quay đi lọng cha đời lố lăng.

Rồi những chuyện mê tín dị đoan. Linh thiêng hiển thánh kiệu bay nhờ vía bà. Lời thơ đả ác:

Vía bà động cỡn tốc bay lên
Cách mạng tháng Tám không phải là cái mốc cắt đôi phong cách sáng tác của Tú Mỡ như đối với các nhà thơ lãng mạn thời ấy. Tú Mỡ vẫn tiến trên hướng viết của mình với nhiều phát triển mới. Ông đã đoạn tuyệt với thân phận ký cóp, phán còm, để trở thành một nhà thơ cách mạng. Từ năm 1947 Tú Mỡ được trao nhiệm vụ làm thơ đả kích địch, đầu tiên ở Sở thông tin tuyên truyền khu 12 (Liên khu một), rồi ở Ty thông tin Bắc Giang, Nha thông tin Trung ương. Ông khai sinh một bút danh mới: Bút chiến đấu. Anh em bạn văn thường gọi là bác Đấu. Bác Đấu đã đánh Pháp, đánh bù nhìn liên tục tới lúc Pháp thua, Pháp rút. Tập thơ Bút chiến đấu của Tú Mỡ, chọn lọc lại từ các bài thơ viết từ 1947 đến 1954 có tới 105 bài.

Từ 1954, Tú Mỡ chuyển đối tượng đả kích: Mỹ và các chính quyền tay sai ở miền Nam, từ Diệm đến Thiệu. So với các giai đoạn trước, thơ Tú Mỡ từ 1954 có nhiều nét khác biệt: đối tượng đả kích thu hẹp và chất liệu để dựng bài phải khai thác bằng cách gián tiếp từ các tài liệu, sách báo. Ông không có điều kiện để tắm mình vào cái bể lố lăng những chuyện đời chuyện người như trước, nhưng ông lại có được thuận lợi là những hiểu biết sâu sắc về kẻ thù, được trang bị quan điểm đúng để nhìn và phân tích đối tượng.

Cuối đời, trên cây đàn trào phúng Tú Mỡ nẩy lên đôi giai điệu trữ tình đằm thắm trong chùm thơ về tình cảm gia đình, đặc biệt là tình ông cháu. Vẫn nằm trong mạch văn hóm hỉnh của nhà thơ, nhưng tác động của nó lại xoay vào sự yêu thương nhiều hơn. Ở các bài thơ này, lối viết giản dị càng nâng cao tính chân thật của tình cảm tác giả.
(0) Bình luận
  • Tiếng “tút tút” cuối cùng
    Xóm Tìm nằm nép mình bên dòng sông Trà Lý, nơi bầu trời dường như sà xuống thấp hơn, và mùi bùn non cứ thế quyện vào hơi thở, vào máu thịt của những người dân lam lũ. Ở cái xóm nhỏ ven đê này, mỗi buổi sáng, vào lúc sáu giờ, một chuỗi âm thanh quen thuộc “tút tút…” lại vang lên từ chiếc loa truyền thanh của xã đặt trên đỉnh cột làm từ một cây xoan già.
  • Cuộc phiêu lưu của chì gầy
    Tôi nằm vạ vật ở quầy bán văn phòng phẩm đã lâu mà chẳng cô cậu học sinh nào đoái hoài. Lớp bụi thời gian phủ lên thân thể gầy còm khiến tôi ngứa ngáy, khó chịu. Nhìn các bạn bút chì cùng trang lứa được đón về trong niềm hân hoan, tôi “gato” lắm. Nhiều lần tôi muốn nhào ra khỏi hộp hét lớn “bút chì gầy ở đây nè!” rồi lại thất vọng khi người ta chọn mấy chị bút máy xinh đẹp, anh bút xóa vạm vỡ hay các bạn bút bi sặc sỡ.
  • Phở Đệ Nhất Thanh - Truyện ngắn của Huỳnh Trọng Khang
    Con vàng anh yếm cam nghiêng đầu rỉa cánh. Trong ánh nhập nhoạng của ngày vừa vào sáng, nhúm lông vũ bé bỏng như đốm lửa hoang dã bập bùng trong chiếc lồng treo trước nhà chú Xè.
  • Trao giải 11 tác phẩm xuất sắc “Truyện ngắn Sông Hương 2024”
    Ban tổ chức đã trao giải 11 tác phẩm xuất sắc cho cuộc thi “Truyện ngắn Sông Hương 2024” do Tạp chí Sông Hương phát động.
  • Thiền đào
    Chàng vẫn âm thầm dõi theo những bài viết của nàng và không bỏ sót bất kỳ phóng sự nào về nàng. Đôi mắt nàng khi bảy tuổi hay của bây giờ vẫn vậy. Xoáy xiết, ám ảnh. Nhấn chàng xuống đỉnh vực. Vẫy vùng. Ngộp thở. Toàn thân không trọng lượng. Đôi vực sâu đồng tử đã xoáy chàng đến một nơi quen thuộc. Là dinh đào, khi ấy chàng đang ở tuổi mười ba.
  • Ăn Tết nay yêu Tết xưa
    Đợt rét ngọt đầu tiên của tháng Chạp đã luồn qua khe cửa, bà Ngân thoáng rùng mình khi trở dậy vào sáng sớm. Loẹt quẹt đi xuống bếp, rót đầy một cốc nước gừng nóng sực đã ủ sẵn trong bình, bà vừa xuýt xoa uống vừa nhẩm tính xem Tết năm nay nên sắm sửa những thức gì. Kỳ thực, quanh đi quẩn lại, năm nào bà cũng bày biện từng ấy món quen thuộc. Nhưng cái việc nôn nao nghĩ suy về cái Tết sắp đến mới ngọt ngào làm sao, nhất là khi năm nay gia đình bà có thêm cô con dâu mới.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Triển lãm tranh cổ động tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
    Triển lãm nhằm khẳng định tầm vóc, ý nghĩa lịch sử và mốc son chói lọi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)...
  • Tiếng “tút tút” cuối cùng
    Xóm Tìm nằm nép mình bên dòng sông Trà Lý, nơi bầu trời dường như sà xuống thấp hơn, và mùi bùn non cứ thế quyện vào hơi thở, vào máu thịt của những người dân lam lũ. Ở cái xóm nhỏ ven đê này, mỗi buổi sáng, vào lúc sáu giờ, một chuỗi âm thanh quen thuộc “tút tút…” lại vang lên từ chiếc loa truyền thanh của xã đặt trên đỉnh cột làm từ một cây xoan già.
  • Tái hiện nạn đói năm 1945 từ ký ức và tư liệu lịch sử
    Nạn đói năm 1945 - thảm họa từng khiến hơn hai triệu người Việt Nam thiệt mạng cho đến nay vẫn là một nỗi ám ảnh trong lịch sử của dân tộc ta. Cuốn sách “Sự thật về nạn đói năm 1945" (qua tư liệu và ký ức lịch sử)” của nhà sử học Nguyễn Quang Ân, do NXB Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành đã tái hiện chân thực thảm họa ấy. Qua những tư liệu quý giá và lời kể từ nhân chứng lịch sử, tác phẩm khơi dậy ký ức bi thương, đồng thời soi sáng nguyên nhân lịch sử và hun đúc tinh thần yêu nước, ý chí độc lập dân tộc t
  • Xã Đông Anh phấn đấu trở thành vùng động lực mới của Thủ đô
    Sáng 31/7, Đảng bộ xã Đông Anh (TP. Hà Nội) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 với chủ đề: Phát huy truyền thống anh hùng; đoàn kết, kỷ cương, đổi mới, sáng tạo; xây dựng Đông Anh giàu đẹp, văn minh, phát triển bền vững. Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Đông Anh lần thứ I là tiền để để đưa Đông Anh trở thành vùng động lực mới của Thủ đô.
  • Phường Láng chủ động thích ứng với yêu cầu truyền thông trong kỷ nguyên số
    Ngày 31/7, Đảng ủy phường Láng- TP. Hà Nội tổ chức Hội nghị tham gia góp ý Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ phường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025–2030; ra mắt trang fanpage “Phường Láng – Thành phố Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Tú Mỡ: “Màu mỡ vì chưng ra cả bút”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO