Trương Nam Hương, sóng vỗ nao lòng Hà Nội
Chỉ với bốn câu thơ trong bài tứ tuyệt “Bốn nét phác Hà Nội”, Trương Nam Hương đã cho thấy sự khác biệt của một tài thơ. Đó là Hồ Gươm, là sông Hồng với huyền sử “Rồng bay lên”, là hoa sữa, là “bốn mùa thao thức tuổi rêu phong” không chỉ trong thơ phú, ca dao mà còn trong âm nhạc, hội họa…
Mặt hồ giữa phố như nghiên mực
Sông thảo hoa văn một nét rồng
Hoa sữa thơm nồng lên giấy điệp
Bốn mùa thao thức tuổi rêu phong
Chỉ với bốn câu thơ trong bài tứ tuyệt “Bốn nét phác Hà Nội”, Trương Nam Hương đã cho thấy sự khác biệt của một tài thơ. Đó là Hồ Gươm, là sông Hồng với huyền sử “Rồng bay lên”, là hoa sữa, là “bốn mùa thao thức tuổi rêu phong” không chỉ trong thơ phú, ca dao mà còn trong âm nhạc, hội họa…
Ai đến Hồ Gươm mà không biết tới Tháp Bút, công trình được xây dựng gắn liền với tên tuổi cụ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (Thần Siêu). Dẫu tháp nhỏ bé và khiêm nhường nhưng dòng chữ “Tả Thanh Thiên” khắc trên đó đã cho thấy một ẩn dụ về hoài bão lớn lao - “viết lên trời xanh”, xây dựng nền văn vật kinh kỳ.
Còn Trương Nam Hương, đứng bên Tháp Bút đã tưởng tượng Hồ Gươm như một “nghiên mực”. Đã có bút thì phải có mực mới viết được. Có hiểu bối cảnh lịch sử lúc Thần Siêu xây dựng Tháp Bút vào năm 1865 mới thấm ý nghĩa người xưa gửi gắm. Đó là khí phách Hà Nội.
Viết về Hà Nội không dễ, viết ngắn về Hà Nội càng khó và để “nằm lòng” cùng thời gian, càng cực khó. Cố nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh từng nhắc đến yếu tố “may mắn” khi sáng tạo là ở điểm này. Thấu cảm Hà Nội và với tài thơ của mình, nhà thơ Trương Nam Hương mới có được thi phẩm “Bốn nét phác Hà Nội”.
***
Cha của Trương Nam Hương vốn gốc Huế, còn mẹ quê ở Bắc Ninh, nhưng tuổi thơ ông gắn bó với Hà Nội, rồi dịch chuyển theo những bước đường công tác của cha. Sau thời gian ngắn ở Huế, Biên Hòa, gia đình ông định cư tại TP. Hồ Chí Minh:
Ruổi rong khắp bốn phương trời
Câu thơ hành khất theo người hành hương
Ta gom nhặt giữa đời thường
Nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của cha
(Câu thơ ngày về)
Do vậy, trong thơ Trương Nam Hương có ngọt ngào Kinh Bắc; thâm trầm cố đô Huế; hào hoa, thanh lịch Hà Nội; hào sảng, cưu mang của đất phương Nam.
Trong tôi có chút sâu đằm
của Kinh Bắc với thâm trầm cố đô
sông Hồng hắt đỏ lên thơ
tôi buông lục bát xanh bờ Hương Giang
(Gửi hai dòng sông quê).
Nói như nhà thơ Phan Huyền Thư, Trương Nam Hương “thờ phụng” Hà Nội như một linh hồn. Có lẽ vì thế, ông viết khá nhiều về Hà Nội, tình cảm, tâm thế của ông thuộc về Hà Nội, được xác tín trong thơ. Có thể kể đến “Trăng phố”, “Hà Nội một thời”, “Mùa xanh”, “Hà Nội anh về”, “Viết ở Nghi Tàm”, “Rơm rạ một thời tôi”, “Lộc vừng Hồ Gươm”, “Với sông Hồng”, “Ký ức phố”, “Góc nhớ Hà Nội”… Dường như Hà Nội luôn “ám ảnh” trong tâm hồn thơ ông.
Trương Nam Hương sống ở Hà Nội vào thời kỳ đất nước chưa thống nhất, cuộc sống biết bao gian khó:
Một thời Hà Nội lo toan
Gạo ngô thì thiếu, hoa xoan lại thừa
Một thời. Ôi, một - thời – xưa
Áo phong phanh gió bốn mùa buồn vui
(Hà Nội một thời)
Nhưng trong thơ ông, người đọc vẫn gặp một Hà Nội bình yên, thân thương và rộng lượng:
Nhớ Hà Nội những đêm báo động
Mặc bom rung dế vẫn gáy trong hầm
Hoa sữa còn thơm, biết mình còn sống
Mẹ khóc thầm trong giá rét căm căm
(Thành phố tuổi thơ tôi)
Đến bây giờ Trương Nam Hương vẫn chưa quên những niềm vui trẻ con, như chọc bàng chín, nhảy tàu điện ra Bờ Hồ xem chợ Tết, dỏng tai nghe hát xẩm... Đó là một phần ký ức:
Những quả sấu giòn rơi trưa tháng Sáu
Hà Nội ơi nhớ quá tuổi lên mười
Ta nhón nhẩy bước cào cào châu chấu
Suối ve trào vòm phượng - nắp vung sôi
(Thành phố tuổi thơ)
Năm 1985, Trương Nam Hương trở lại Hà Nội lần đầu, anh xúc động:
Anh xa đất Bắc mười năm
Tay em Hà Nội xin cầm hơi lâu
Hỏi mùa hoa sữa đi đâu
Câu thơ ngồi khóc, mắt nâu lại buồn
(Chiều Hà Nội và em)
Và thổn thức:
Ly kem Thủy Tạ mười năm trước
Còn mãi thơm tho đến tận giờ
Anh đứng bên kia cầu Thê Húc
Nhìn áo em hồng nắng lấp lơ…
(Nhớ mùa đông Hà Nội).
Trong bài thơ “Hà Nội một thời” Trương Nam Hương cũng nhắc nhớ bao ký ức về Hà Nội:
Một thời Hà Nội hiên ngang
Giữa bom rơi. Hứng quả bàng chín rơi
Một thời Hà Nội cùng tôi
Mũ rơm, lọ mực, nếp xôi đến trường
Một thời Hà Nội thảo thương
Sẻ chia lát đậu, thìa đường, mớ rau
Một thời Hà Nội buốt đau
Khâm Thiên trắng xót mái đầu khăn tang.
Đó là một thời lung liêng trong tâm hồn thơ Trương Nam Hương. Ông sống cùng gian khó mà tự hào, kiêu hãnh… Đến bây giờ, Trương Nam Hương vẫn:
Tạ ơn Hà Nội trọn đời
Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo
(Hà Nội một thời)
Chỉ sông Hồng thương mẹ hát đơn côi
Phù sa đỏ như miếng trầu mẹ quyệt
Ăn hạt gạo mãi giờ con mới biết
Có sông và đời mẹ ở bên trong
(Với sông Hồng)
Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây... là không gian nghệ thuật “đặc biệt” trong thơ Trương Nam Hương. Nhìn sương khói Hồ Hoàn Kiếm ông lặng nhớ về tuổi thơ, về mẹ của mình:
Nhớ lặng thầm thôi không dám gọi
Sợ làm tóc mẹ giật mình rơi
Bao nhiêu sợi trắng dâng như khói
thảng mặt Hồ Gươm lạnh bốc hơi
(Nhớ mùa đông Hà Nội)
Và ông bồi hồi:
Anh ra đền Ngọc Sơn ngồi
Lá si lựa chỗ không người để gieo
(Viết ở Hồ Gươm)
Hồ Gươm hiện lên trong thơ ông với một lời mời:
Lên cầu Thê Húc đi em
Nhớ thăm thẳm nhớ một đêm gió lùa
Rễ si rét đến run mùa
Môi em đào nụ giao thừa - Mùa xuân
(Lời mời đêm giao thừa)
Còn đây là những câu thơ tình anh viết ở Hồ Tây:
Bao tình nhân đến Hồ Tây
Khéo thôi kẻo dẫm dấu giày anh xưa
Áo lưng lửng lẳn eo mùa
Thun thăn váy lá bỏ bùa ai đây
(Trăng phố)
Mùa hư ảo hay tình em ảo thế
Anh xoay ngang khẽ chạm sóng Tây Hồ
Có ánh mắt nhìn anh qua thế kỷ
Thấy anh giờ dắt nhớ tuổi anh xưa!
(Góc nhớ Hà Nội)
***
Tài thơ Trương Nam Hương bộc lộ từ sớm. Khi mới ngoài 20 tuổi Trương Nam Hương đã xuất bản “Khúc hát người xa xứ”, (Nxb Trẻ, 1990) và cho đến nay ông đã có 12 tác phẩm. Về thành tựu, Trương Nam Hương đã có 10 giải thưởng; giải nào cũng danh giá, nhưng phải kể đến Giải thưởng Văn nghệ Quân đội (1989-1990) và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, (năm 1991), cũng như nhiều giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và các giải thưởng khác.
Về đề tài Hà Nội, ông đã đạt Giải Nhất Cuộc thi thơ Thăng Long - Hà Nội, trái tim tôi, của báo Sài Gòn Giải phóng (năm 2010), nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Có thể nói rằng, nếu thi ca là một “tôn giáo” thì Trương Nam Hương từ lâu đã được chọn là một tông đồ. Ngoài thơ và dịch thơ, ông không “sân si” một lĩnh vực nào khác. Dẫu “thế giới xô lệch” và văn chương đang “bươn bả” với nhiều xu hướng, phong cách nhưng Trương Nam Hương vẫn vậy, bình thản, thánh thiện. Ông tiếp tục sáng tạo thi ca những gì thuộc về nhân bản.
Với Hà Nội, Trương Nam Hương đã viết, vẫn viết cho những đứa con xa đất Thủ đô, ngược dòng cảm xúc. Thơ về Hà Nội của ông là tiếng thơ khắc khoải, sóng luôn vỗ đến nao lòng.
Những ngày này, Hà Nội đã vào thu, Trương Nam Hương dù tròn “lục thập hoa giáp” nhưng trái tim vẫn dào dạt lắm. Hà Nội vẫn chờ đấy, Trương Nam Hương!