Tình xuân trong thơ Bích Khê
Bích Khê, gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới được Hàn Mặc Tử mệnh danh là “thi sĩ thần linh”, còn Chế Lan Viên gọi Bích Khê là “đỉnh núi lạ”.
1. Bích Khê, gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới được Hàn Mặc Tử mệnh danh là “thi sĩ thần linh”, còn Chế Lan Viên gọi Bích Khê là “đỉnh núi lạ”. Đỉnh núi ấy đã tỏa sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam như một vì sao lấp lánh những hào quang. Hành trình sáng tạo thơ của Bích Khê là hành trình khám phá những mới lạ của thế giới thi ca mà hai tập thơ “Tinh huyết” và “Tinh hoa” để lại cho đời là một xác chứng cho những giá trị cách tân về thơ của Bích Khê.
Đọc thơ Bích Khê ta không chỉ thấy vẻ đẹp của những câu thơ viết về mùa thu mà còn bắt gặp trong thi giới Bích Khê những câu thơ viết về mùa xuân vừa đẹp, vừa nồng nàn, ấm áp. Vì vậy, tình xuân, hồn xuân, cũng là một tinh cầu không thể thiếu trong vũ trụ thi ca Bích Khê như chính thi nhân đã xác quyết trong bài thơ “Tình xuân” vang ngân như một lời mời gọi: “Ngày xuân ai chẳng lại/ Chơi xuân một nhành mai/ Gió xuân rơi hoa hết/ Tình xuân dễ lợt phai”.
2. Như bao thi sĩ tài năng và giàu cá tính sáng tạo, Bích Khê cũng yêu mùa xuân, cũng chờ mong xuân đến, cũng khao khát đón xuân. Và cho dẫu “tình xuân dễ lợt phai” thì mùa xuân vẫn là một thực thể hiện hữu không thể thiếu trong cõi nhân gian với những dư vị riêng làm xuyến xao lòng người. Mùa xuân, vì thế là mùa của tình yêu, của những lời tỏ tình với những câu hát giao duyên đã đi vào tâm thức văn hóa dân tộc làm nên những giá trị mỹ cảm mà nếu không có điều ấy, đời sống con người sẽ thiếu đi một phần nghĩa ý trong những tháng năm rong chơi giữa cuộc đời. Bài thơ “Đêm xuân đến thôn Vĩ Dạ nghe đàn sáo” của Bích Khê trong bài thơ “Nguyên đán” đã không ngại ngần trải lòng ra với mùa xuân bằng những xúc cảm thật nồng nàn: “Xuân của đất trời nay mới đến/ Trong tôi xuân đến đã lâu rồi/ Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi/ Trong vườn thơm ngát của hồn tôi”. (Xuân không mùa).
Khác với Xuân Diệu, Bích Khê không có sự khát khao tình xuân mãnh liệt và thê thiết để thốt lên: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” nhưng không vì thế mà tình xuân trong thơ Bích Khê kém mặn nồng. Bích Khê yêu mùa xuân theo cách riêng của mình, không vồ vập như chàng thi sĩ đa tình Xuân Diệu nhưng không phải không thiết tha và sâu lắng. Bài thơ “Tinh chất ngàn xuân” của Bích Khê là một câu trả lời minh chứng cho tình xuân nồng nàn trong thơ Bích Khê: “Tinh chất ngàn xuân hiệp lại ta/ Mình như chim tước nhẹ bay qua/ Ới ai mê luyến màu nhan sắc/ Níu thiếp mơ loàn vẻ nguyệt ba/ Son trẻ Thiên tài lông hạc múa/ Xanh tươi Nghệ thuật bút đào pha/ Đâu đây lãng đãng bầu hương nhạc/ Phất phất gần như phất phất xa”. Bài thơ là bức tranh xuân tràn đầy sự sống. Đó là một sự sống được chưng cất, được kết tinh từ những tinh chất của “ngàn xuân”. Hình ảnh, âm thanh, màu sắc và cả hương hoa của đất trời như đang kết tụ lại để làm nên một thứ hương xuân đặc sắc, lan tỏa trong đất trời và trong tâm hồn con người làm nên một mùa xuân bất tận. Và mùa xuân ấy không chỉ là mùa xuân của đất trời, đó còn là mùa xuân của tình yêu, của thi ca đã hòa quyện vào nhau tạo cho mùa xuân một sức sống diệu kỳ làm lay động hồn người. Bài thơ “Xuân hồng” của Bích Khê là một thực thể như thế: “Nghìn hồng muôn tía đón xuân qua/ Thiếu nữ trong gương tỏ mặt hoa/ Nâng chén rượu nồng ta sẽ chúc:/ Xe hoa, người mới dặm oanh ca”.
“Xuân tượng trưng”, bài thơ ghi dấu ấn sâu sắc thi pháp Bích Khê trong hành trình sáng tạo thi ca. Bài thơ không chỉ là một khúc ca mùa xuân ấm nồng sức sống mà còn thể hiện một vẻ đẹp phồn thực của tự nhiên và con người trong mối tương giao của những trạng thái cảm xúc vừa thực lại vừa mộng, vừa cụ thể lại vừa trừu tượng tạo nên một sức xuân mang một giá trị thẩm mỹ độc đáo của vũ trụ thơ Bích Khê: “Hỡi lời ca man dại/ Ðiệu nhạc thở hơi rừng/ - Ðêm nay xuân đã lại/ Thuần tuý là tượng trưng/ Nâng lên núm vú đồi/ Sữa trăng nhi nhỉ giọt/ Bay qua cụm liễu khơi/ Những cườm tay điểm hột/ Sương. Phất phơ lau lách/ Khẽ uốn mình giai nhân:/ Ðường non kheo điêu khắc/ Những dáng hình khoả thân:/ Lụa mây nẩy vàng chạm/ Tía ngọc bén màu ngân…” Thơ Bích Khê là thơ có tính biểu tượng cao. Điều này thể hiện rõ trong thơ xuân của ông mà bài “Xuân tượng trưng” là một minh chứng. Bài thơ là biểu tượng về sức sống của con người và tự nhiên mà ở đó vẻ đẹp của mùa xuân được thi sĩ cảm nhận thật tinh tế. Tình xuân, ý xuân như lan tỏa trên từng con chữ tạo nên một lực hấp dẫn đối với người đọc trong hành trình khám phá thi giới xuân của Bích Khê và trú ngụ ở đó để tận hưởng vẻ diệu kỳ với muôn vàn cung bậc cảm xúc của mùa xuân mang đến: “Lời ca như hạc theo/ Gió lên. (Tình múa reo/ Những điệu vàng châu báu/ Dường có con chim báu/ Rỉa cánh trên ngai lòng)/ Loè xoè màu lông công/ Vườn thơm khua sắc mát:/ Rồng uốn vóc từng cong/ Áo bạch mai khoát khoát/ Môi đào chờ khoái lạc.../ Hồn tôi như đỉnh hương/ Bốc lên mình thánh giá!/ Ý xuân mát đến xương/ Ngậm tuyết phun lã chã!” (Xuân tượng trưng). Bởi như Lê Huy Oanh từng nhận định: “Thơ Bích Khê đã vượt khỏi cái vẻ tầm thường của những kiến tạo ngôn ngữ thông thường. Sứ mệnh của thơ chàng là đưa chúng ta từ thế giới hạ đẳng của cảm giác đến thế giới siêu đẳng của tâm linh. Vì thế, khi đọc thơ Bích Khê, độc giả cần phải mở thật rộng tâm linh để có thể thâu nhận những ý tưởng và hình ảnh mờ ảo nhất, tinh vi nhất, kỳ diệu nhất”.
Một điều không thể không nói đến trong thơ xuân Bích Khê đó là vẻ đẹp cổ điển thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa phương Đông và phương Tây mà bài thơ “Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn” là một minh chứng: “Khúc Nghê vắng tựa lâu rồi,/ Mộng tiên dài dặc, mộng người biết đâu./ Trời trong động, quạnh xuân sâu,/ Nẻo trần không lối rầu rầu trăng soi./ Hương đầy suối, cánh đào trôi,/ Men khe cát trắng, cỏ thôi bơ sờ!/ Sương mai, đèn gió mơ hồ/ Sông đành không chốn hỏi đò Lưu lang”. Và đây cũng là nền tảng tư tưởng mỹ học để Bích Khê khám phá những cái mới trên hành trình cách tân thi ca mà ông luôn hướng đến như một khát khao sáng tạo. Tình xuân trong thơ Bích Khê, vì thế, là sự phóng chiếu từ một chiều kích khác của tư duy thơ luôn hướng đến những giá trị hiện đại trên con đường mở cánh cửa huyền diệu và bí ẩn của thơ mà nếu không có tài năng, không thể chạm tới được. Nói như Chế Lan Viên: “Chính nhờ cái sức tiềm tàng của Đông Phương, chưa ai hiểu hết, kể cả thầy Tây, nhờ Khê quá nửa đời người, quá nửa tâm hồn thân thể đắm mình trong Đông Phương, trong dân tộc ấy, mà Khê đã tìm ra cái mới.”
Một bình diện khác cũng rất ấn tượng về tình xuân trong thơ Bích Khê, đó là vẻ đẹp mùa xuân luôn được thi nhân quán chiếu qua vẻ đẹp của người thiếu nữ. Với Bích Khê, mùa xuân và thiếu nữ là hai thi ảnh không thể tách rời. Mối tương giao này được ông thể hiện rất đặc sắc qua bài thơ “Tranh lõa thể”: “Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố Nữ,/ Ô tiên nương! nàng lại ngự nơi nầy?/ [...]/ Tiên nương hỡi! nàng sống trên thế hệ,/ Bóng thời gian phải quỵ dưới chân nàng/ Xuân muôn đời di dưỡng giữa vùng tang!/ Gương phép tắc suốt soi ngàn mộng ảnh!/ Cớ làm sao nâng niu bầu giá lạnh,/ Ấp tranh người, lơ đãng ngắm thi nhân?/ Hay nàng nhớ nhung các phượng đền lân?/ Hay nàng ước mơ tình trong trắng ngọc?/ Ôi! nàng ôi! Làm sao nàng chẳng khóc/ Người thi nhân, vẻ đẹp của khiêu dâm/ Trăng thanh tịnh còn lóng trong thơ câm,/ Nhạc vô minh hằng sôi trên nét chữ?/ Ôi! Nàng ôi! thốt lên, lời ngọc nữ / Lời trân châu rúng cả phiếm lòng tôi...” Hay hình ảnh mùa xuân được thi sĩ cảm nhận qua vẻ đẹp của các nàng tiên trong bài “Mơ tiên” mà khi đọc lên ta cảm thấy một không gian xuân đầy mộng mị, lạ thường: “Bao giờ cho mộng nở hoa/ Bao giờ xuân chín nõn nà trên môi?/ Để tôi đi cướp mây trời/ Vén ra cho thấy một vài nường tiên”. Và vẻ đẹp của Hằng Nga trong cái nhìn của Bích Khê cũng là vẻ đẹp của nàng xuân: rực rỡ, thanh tao và hấp dẫn: “Mộng sao mộng lạ - trắng như ngà/ Giai nhân hiện bóng dưới Hằng Nga.../ Họ đẹp như xuân, sắc như gấm/ Và hồn hé nhạc thắm như hoa./ Nguồn sống thơm tho chảy giữa lòng,/ Xô bồ gót ngọc bước song song...” Mộng lạ).
Như vậy, tình xuân trong thơ Bích Khê là sự kết hợp hài hòa giữa cảm hứng về mùa xuân và cảm hứng về người thiếu nữ. Hai thực thể này luôn đồng hiện trong thơ ông như một sự ám ảnh của vô thức và tâm linh. Song sự liên tưởng giữa vẻ đẹp mùa xuân với vẻ đẹp người thiếu nữ, không phải là một giá trị riêng có của Bích Khê mà trong thơ Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính ta cũng thấy có sự đối sánh này. Nhưng nếu ở thơ xuân Hàn Mặc Tử, hình ảnh người thiếu nữ là những con người trong thế giới hiện thực như “cô thôn nữ hát trên đồi (Mùa xuân chín), cô gái với chiếc “áo hường” rực rỡ vẫn mặc khi xuân về làm “rộn rã nỗi yêu thương” (Nắng tươi), hay trong thơ Nguyễn Bính là hình ảnh một cô gái chưa chồng: “Đã thấy xuân về với gió đông/ Với trên màu má gái chưa chồng” (Xuân về), hình ảnh một người chị “Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở/ Chị vẫn môi son vẫn má hồng” (Xuân tha hương) thì hình ảnh người thiếu nữ trong thơ Bích Khê lại thuộc về thế giới siêu thực, đó là hình ảnh cô gái trong “Tranh lõa thể”; Tiên nữ trong “Mơ tiên” hay Hằng Nga trong “Mộng lạ”… Và điều này đã tạo nên một thi giới riêng trong thơ xuân Bích Khê. Bởi, khi làm thơ, Bích Khê luôn tự làm mới mình, thích phiêu lưu, khám phá những chân trời thi ca mới mà “Tinh huyết” và “Tinh hoa” là minh chứng cho những tìm tòi, sáng tạo ở một thiên tài thi ca, như Chế Lan Viên từng đánh giá: “Có những nhà thơ làm thơ, có những nhà thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca duy tân thêm một bước, có những nhà thơ đem đến một mùa lương thực. Lại có nhà thơ cầm một dúm hạt giống mới trên tay. Khê thuộc hạng thứ hai.”
3. Khác với những người “làm thơ” chỉ để thỏa mãn thú tiêu khiển hay để “đánh bóng” tên tuổi mình, chứng tỏ mình là “thi sĩ”, một thứ “thi sĩ nửa mùa”, Bích Khê làm thơ là để xác quyết sự hiện hữu của nhân vị mình giữa cuộc đời. Vì vậy, Bích Khê đã vắt kiệt sức mình cho thơ, vì thơ đối với ông là sự sống, là hơi thở, là hiện hữu, là tình yêu và tinh thần này đã hiện rõ trong thơ xuân của ông. Thơ viết về mùa xuân của Bích Khê tuy không nhiều nhưng là một phần không thể thiếu trong đời thơ Bích Khê, là một bình diện mỹ cảm trong thi giới Bích Khê, giúp người đọc hiểu được những chiều kích khác nhau trong tâm hồn thi sĩ.
Đến với thơ xuân Bích Khê, người đọc không chỉ thấy vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân mà còn thấy được chiều sâu tư tưởng và tình cảm vô cùng phong phú, đa dạng cũng như sự cách tân trong thi pháp của một nhà thơ luôn khát khao sáng tạo, là người “gieo hạt giống thơ cho những mùa sau”, là người sống “dấn thân”(J.Paul Sarte) cho những giá trị đích thực của thơ ca và cuộc sống. Đó cũng chính là khát vọng cháy bỏng của Bích Khê trong những tháng năm ngắn ngủi của kiếp người như lời thơ ông viết: “Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới/ Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong” (Duy Tân).
Vì vậy, tình xuân trong thơ Bích Khê là một hệ giá trị góp phần làm nên sự bất tử của thơ ông trong tâm thức người đọc nhiều thế hệ, cho dẫu hôm nay, thi sĩ đã trở thành người của “muôn năm cũ”…
..............................................
(1) Lê Huy Oanh, “Số chuyên đề về Bích Khê”, Văn học , 1974, tr.65
(2) Chế Lan Viên, “Thơ Bích Khê”, Tuyển tập, Hội Nhà văn, Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ngãi xuất bản, 2006, tr. 158
(3) “Thơ Bích Khê”, Sở Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình xuất bản, (1988), tr. 26