Nhà văn Đoàn Tuấn tái hiện chiến trường K qua những hồi ức về đồng đội
“Những ngọn khói bên đường” - tuyển tập bút ký về chiến trường K của nhà văn, người lính Đoàn Tuấn mang đến những lát cắt về cuộc đời người lính tình nguyện Việt Nam từng chiến đấu tại mặt trận biên giới Tây Nam, trong thời chiến và hậu chiến.
Từng là quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường biên giới Tây Nam, nhà văn Đoàn Tuấn mang ký ức ấy theo suốt sự nghiệp cầm bút. Trước “Những ngọn khói bên đường”, ông đã xuất bản “Mùa linh cảm” và “Mùa chinh chiến ấy” như một cách tri ân đồng đội và quá khứ vừa hào hùng vừa bi thương.
Trong lời giới thiệu, nhà văn Đoàn Tuấn chia sẻ lý do lựa chọn hình ảnh “ngọn khói” để làm nhan đề cho cuốn sách. Ngọn khói là ấn tượng đầu tiên ông bắt gặp khi trở về đất nước mình sau 5 năm chinh chiến: “Ngọn khói của đồng bào Tây Nguyên. Ngọn khói thơm mùi nương rẫy.[...] Tổ quốc hiện lên không bằng cờ, không bằng khẩu hiệu mà bằng chính làn khói xanh mờ ấy.”

Hằn sâu trong lòng người lính Đoàn Tuấn là “nghĩa trang không hương khói” nơi ông đã chôn cất những đồng đội không may mắn. Ông cảm thấy“những cái chết ấy vẫn lặng lẽ tỏa khói hương phía chân trời. Thứ khói không nhìn thấy được, nhưng vẫn âm ỉ trong ký ức, trong nỗi day dứt của những người còn sống”. Sau này, mỗi khi bắt gặp ngọn khói của cuộc sống bình yên tỏa lên từ muôn nẻo đường đất nước, ông lại nhớ về bao người đã ngã xuống: “mang họ theo trong tim nên khói dù ở đâu, lúc nào, cũng trở thành một dấu hiệu để tưởng niệm.”
Chính vì nhớ, vì day dứt, ông đã cầm bút viết: “Tôi ký họa, khắc họa họ bằng ngôn ngữ, thứ duy nhất tôi có. Tôi viết để giữ họ lại, để họ không tan biến trong im lặng, không bị lãng quên giữa dòng đời hối hả. Viết, như một cách thắp lên một nén nhang vô hình.”
Các bút ký trong “Những ngọn khói bên đường” xoay quanh Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư đoàn 307 quân tình nguyện Việt Nam tại chiến trường Đông Bắc Campuchia, đặc biệt ở tỉnh Preah Vihear.
Câu chuyện dài theo hành trình từ những ngày giữ chốt ở Gia Lai - Kon Tum đến khi vượt biên giới làm nghĩa vụ quốc tế, vượt sông Mekong truy kích quân Pol Pot, rồi tiến sang vùng Preah Vihear bảo vệ biên giới Campuchia, chống quân Pol Pot đột kích vào nội địa.
Với giọng văn mộc mạc, khỏe khoắn và chân thực của một người từng cầm súng, nhà văn Đoàn Tuấn kể những câu chuyện về đời lính trong cả thời chiến lẫn hậu chiến. Những mẩu chuyện nhỏ tưởng như vụn vặt nhưng đã khắc họa rõ “con người” phía sau “người lính”.
Người đọc bắt gặp những người lính qua biệt danh hài hước, trò trêu chọc nhau, bữa cơm dã chiến hay cách họ giải khuây trên đường hành quân. Nhiều câu chuyện cho thấy khiếu hài hước đặc biệt của tác giả, có lẽ một phần được rèn luyện từ chiến trường, nơi cái chết rình rập từng phút giây và người lính phải tìm mọi lý do để cười, để lạc quan. Nào chuyện “ma cũ” lừa lính mới nộp đơn xin “phụ cấp tình yêu”, “phụ cấp hao mòn tuổi xuân” hay chuyện con yểng bắt chước tiếng người, học được tên của tiểu đội trưởng Thành giun và kêu tên anh không đúng lúc đúng chỗ khiến cả đội cười vỡ bụng.
Cả những chi tiết tưởng nhỏ nhặt cũng được tác giả khéo léo khai thác như chuyện vạt áo bị mối gặm nham nhở gợi “mùi lính chiến”; cuốn sổ tay chép thư vợ chất chứa nỗi nhớ. Rồi chuyện con châu chấu bay lên từ thi hài, hàng chục ba lô tử sĩ gửi về hậu phương hay đôi nạng hóa vàng muộn màng gợi sự tiếc nuối và day dứt. Tuy kể chuyện bằng giọng bình thản, tự nhiên, hài hước nhưng tác giả không cố ý giảm nhẹ sự khốc liệt của cuộc chiến.
Trong “Những ngọn khói bên đường”, nhà văn Đoàn Tuấn đưa bạn đọc gặp lại gương mặt bạn bè, đồng đội với tất cả sự yêu thương và trân trọng. Ngòi bút giản dị, kiệm lời mà tinh tế đã phác nên những ký họa sắc nét, khiến cảnh và người hiện lên sinh động.
Bạn đọc được làm quen với nhiều đồng đội của ông: lính thông tin, trinh sát, bộ binh, hậu cần, y sĩ, anh nuôi… với đủ cá tính: dí dỏm, nóng nảy, điềm đạm, cộc cằn, nhưng đều chân chất, thẳng thắn. Chỉ bằng vài chi tiết, Đoàn Tuấn đã dựng nên chân dung sống động: Vị thủ trưởng “hiền từ với anh em nhưng bướng với cấp trên. Chữ ông thẳng, như những cọc hàng rào.”; anh đại đội trưởng “có ngày bắn đến hàng chục trái B40”… tai ứa máu nhưng không đi viện; người anh nuôi người lom khom vừa làm vừa hát; hay người chỉ huy “giọng nói ấm nồng, sang sảng. Dáng người đậm, rắn chắc, những bước đi khoáng hoạt”.
Qua bộ dạng, thói quen, từng nét tính cách, tác giả khái quát nỗi gian khổ của người lính, đồng thời làm bật lên vẻ đẹp giản dị mà lay động. Đó cũng là vẻ đẹp chung của người lính Việt Nam.
Bên cạnh ký ức về đồng đội nơi chiến trường, tác giả còn viết về những người lính sau ngày trở về, lặng lẽ mưu sinh như đi biển, chạy xe ba gác, buôn bán… Đôi khi, họ chợt nhớ và muốn tìm đồng đội. Có người vác cá ngừ lên vai đi tìm nhưng không biết nhà đồng đội ở đâu, đi cả ngày mệt nhoài, may sao đến tối tìm được, cốc bia và món cá “ngon tình đồng đội”!
Đáng chú ý, khi viết về những hy sinh của đồng đội, ngòi bút của tác giả không hề bi lụy. Những con chữ ông viết thật giản dị, chân thực nhưng khiến vẫn khiến người đọc nhói lòng và day dứt. Bạn đọc dễ dàng cảm nhận được từng cái chết trĩu nặng trong lòng người lính trở về, cảm nhận được sự trân trọng và tôn kính trước sự ra đi đó.
Chân thực, giản dị và tinh tế, “Những ngọn khói bên đường” vừa là lời nhắn gửi của người đi trước về cái giá của hòa bình, vừa là lời hứa với đồng đội đã ngã xuống rằng thế hệ sau sẽ luôn ghi nhớ và gìn giữ thành quả ấy. Tất cả những mảnh ghép ấy làm giàu thêm hình tượng người lính Việt Nam – một hình tượng lớn của văn học dân tộc, gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông./.
Nhà văn Đoàn Tuấn sinh năm 1960 tại Hà Nội, từng là sinh viên khoa Văn - ĐH Tổng hợp Hà Nội, tốt nghiệp ĐH Điện ảnh Liên Xô (VGIK) năm 1991. Ông là tác giả của nhiều kịch bản điện ảnh đã được dựng thành phim như “Ngõ đàn bà” (1992), “Chiếc chìa khóa vàng” (1995), “Đường thư” (2000), “Sống cùng lịch sử” (2014), “Trên đỉnh bình yên” (2016), “Truyền thuyết về Quán Tiên” (2023), cùng nhiều kịch bản truyền hình khác. Bên cạnh đó, ông còn có nhiều tác phẩm đã xuất bản thuộc nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, truyện ký, hồi ký, bút ký, thơ dịch.