Tại sao phải nhìn về văn chương đương đại Việt Nam với mốc lịch sử 1975?

kinhtedothi| 06/07/2022 07:26

Trước hết, cần phải nhấn mạnh một quan điểm, mốc lịch sử không nhất thiết đồng nhất với các dấu mốc văn chương. Bởi lẽ, mốc lịch sử chỉ có tác dụng nhìn nhận về các vận động lịch sử - xã hội, trong khi văn chương vận động bằng hệ hình mỹ học, bằng thể loại, bằng các đặc trưng thẩm mỹ... Bởi vậy, việc đưa ra những phân kỳ lịch sử văn học chỉ mang tính chất tương đối.

Tại sao phải nhìn về văn chương đương đại Việt Nam với mốc lịch sử 1975?
Mốc 1975 rất quan trọng với tiến trình văn chương Việt Nam.

Ban đầu, có thể cách phân chia này còn mang dụng ý chính trị (hoặc ảnh hưởng của lối phân kỳ lịch sử dựa trên sự tham dự của chính trị, lịch sử vào văn chương), tuy nhiên, đến bây giờ, cách phân chia này thường là dành cho những mô tả đơn giản. Ở chiều sâu hơn của phân kỳ lịch sử văn học, chúng ta sẽ thấy lịch sử không đứt đoạn như thế, các dấu mốc chỉ như một cọc tiêu, biển báo cho một khúc quanh khác mà thôi. Dòng sông văn học với những con sóng xô đuổi nhau, gối vào nhau, chờm lên nhau, mạch nước thầm lặng vẫn miệt mài liên tục. Nếu muốn nhìn ra thật rõ, thật sâu và chính xác về lịch sử văn học, có lẽ, lời M.Bakhtin mách bảo là hợp lý: Thể loại là nhân vật chính của lịch sử văn học. Cùng với đó, việc nhìn nhận tính chất giao thoa và khác biệt của các hệ hình thẩm mỹ, của các thế hệ văn học... cũng giúp đem lại hình dung biện chứng hơn về lịch sử văn học.

Dẫu như thế, việc đặt một góc máy từ điểm 1975 không phải là không có ý nghĩa trong việc bao quát một chặng đường của văn chương nghệ thuật Việt Nam. Do vậy, việc thiết lập cái nhìn truyền thống theo phân kỳ lịch sử (sau 1975 - để hướng đến việc phổ cập một mô tả đơn giản) là cần thiết, nhưng đồng thời cũng chú trọng vào tính biện chứng, liên tục của lịch sử văn học để hình dung chặt chẽ hơn về một chặng đường văn học. Sau 1975, đất nước thống nhất, đó là phối cảnh chung của mọi vận động lịch sử - xã hội - văn hóa nghệ thuật, tạo nên khúc rẽ quan trọng cho văn chương nghệ thuật cũng như đời sống chính trị xã hội ở Việt Nam. Tầm quan trọng của mốc sự kiện 1975 với văn chương Việt Nam có thể được nhìn nhận trên một số bình diện sau đây:

Thứ nhất, có sự thống nhất về mặt thể chế nhà nước và định hình một không gian địa lý thống nhất của văn học. Văn nghệ Việt Nam được xác lập thống nhất, không còn phân chia giới tuyến - chiến tuyến (trên bề mặt không gian, cơ chế, quản lý hành chính...). Thứ hai, mở ra một giai đoạn văn học mới, vừa kế thừa, tiếp nối vừa khác biệt so với giai đoạn trước. Thứ ba, điều kiện để những dòng mạch văn chương nghệ thuật âm thầm bấy lâu được trỗi dậy, tạo lập tinh thần dân chủ, đa dạng cho đời sống văn chương, nghệ thuật. Thứ tư, văn chương miền Bắc tiếp cận nhiều hơn với văn chương đô thị miền Nam, từ đó giới thiệu trở lại những giá trị của khu vực văn chương - học thuật này. Thứ năm, bắt đầu hình thành một nền văn học Việt Nam hải ngoại khi nhiều văn nghệ sĩ di tản, định cư ở nước ngoài. Thứ sáu, chiến tranh kết thúc, đời sống thế sự xuất hiện những mối bận tâm mới, cảm hứng sử thi lãng mạn không còn là dòng chủ lưu mà song hành cùng những dòng chảy khác của thời hậu chiến. Thứ bảy, hòa bình là bối cảnh cho cảm hứng thế sự đời tư phát triển trở lại, nơi mà những vấn đề cốt thiết của con người được nhìn nhận, soi chiếu một cách đa chiều hơn. Thứ tám, từ sau 1975, với hoàn cảnh mới của đất nước, những bất cập của giai đoạn trước được hình dung rõ rệt, đầy đủ hơn, là tiền đề cho sự “Đổi mới” sẽ trở thành hoạt lực chủ đạo của chặng đường lịch sử - xã hội - văn học tiếp theo.

Như vậy, trong hình dung không tách rời lịch sử với văn hóa - xã hội - văn học nghệ thuật, chúng ta thấy mốc 1975 thực sự quan trọng với tiến trình văn chương Việt Nam. Từ 1975 đến nay, văn học nghệ thuật được định danh là văn học đương đại. Việc đánh giá tổng thể văn học đương đại là việc chưa thể thực hiện, do giai đoạn văn học này chưa hoàn kết. Tuy nhiên, trong cái nhìn tương đối, mốc lịch sử 1975 đã quy chiếu văn học nghệ thuật Việt Nam vào một trường thẩm mỹ, văn hóa, văn học khác. Đó là nơi chúng ta có thể đứng để nhìn về quá khứ, đồng thời dõi theo sự vận động đã và đang diễn ra của văn học Việt Nam.

(0) Bình luận
  • “Bóng của hoa” trên những trang thơ trữ tình đậm chất Hà Nội
    Sau hai tập thơ “Lửa lá” (2009) và “Vườn tôi nở đóa vàng bông” (2013), nhà thơ Đặng Minh Kính - hội viên Hội Nhà văn Hà Nội vừa ra mắt bạn đọc tập thơ “Bóng của hoa” (NXB Hội Nhà văn, 2024). Tôi cứ ngỡ rằng, trên những trang thơ trữ tình giàu cảm xúc tinh tế của nữ tính, đậm chất Hà Nội nơi chị đang chập chờn, ẩn hiện những “Bóng của hoa” đầy thi vị với những suy tưởng khá lắng đọng.
  • Một phác thảo toàn diện về Hà Nội thời cận đại
    Quá trình biến đổi Hà Nội từ khu nhượng địa trở thành một thành phố hiện đại kiểu phương Tây, một “Paris thu nhỏ” của chính quyền thực dân vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã được nhà nghiên cứu Đào Thị Diến phản ánh chi tiết trong cuốn sách “Hà Nội thời cận đại - từ nhượng địa đến thành phố (1873 - 1945)”. Với nguồn tư liệu quý từ hồ sơ lưu trữ, cuốn sách không chỉ phác thảo toàn diện về Hà Nội thời cận đại mà còn góp phần giải mã sự thật lịch sử.
  • Một số gợi mở trong thẩm định thơ
    Nhìn chung đánh giá về việc đọc sách văn học của công chúng, có thể theo nhiều khía cạnh, đồng sáng tạo, kích thích người viết sáng tác, bồi bổ thẩm mĩ, tích lũy tri thức, phát triển đời sống văn hóa… với những hiệu quả tích cực. Nhưng còn có những tồn tại theo chiều hướng ngược lại, mang tính nguy cơ hơn là cơ hội tốt, phản ánh sự trì trệ hơn là phát triển. Đó là sự dễ dãi trong việc đọc, thẩm định thơ từ cả người đọc lẫn người sáng tác, truyền tải.
  • Chi tiết trong sáng tạo của nhà văn
    Chúng ta đều từng quen câu nói của văn hào Nga Macxim Gorki: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả vậy! Chi tiết trong văn xuôi chỉ là một thứ nhỏ, rất nhỏ so với cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật,…
  • Vũ Quần Phương với thơ hay
    Quan sát các nhà thơ viết phê bình tôi thấy rằng vì có sáng tác, nên phê bình của họ thường giàu cảm xúc, thuyết phục bạn đọc bởi sự tinh tế, thành thục của người có nghề, cùng làm nghề với tác giả được bình. Mặt khác, là người cũng từng thai nghén, mang nặng đẻ đau tác phẩm, nên nhà thơ bình thơ thường có sự cảm thông, trân trọng và sẻ chia. Các nhà thơ bình thơ thành công trước đây phải kể đến Xuân Diệu, Chế Lan Viên. Lớp kế tiếp có Vũ Quần Phương, Nguyễn Trọng Tạo, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hoàng Sơn...
  • Văn nghệ sĩ trong Hà Nội tạm chiếm
    Sống trong Hà Nội tạm chiếm những năm 1947-1954, đời sống văn nghệ sĩ hết sức khó khăn. Nguyễn Minh Lang, Hoài Việt, Minh Tân, Thùy Linh, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Tô Kiều Ngân, Thy Ngọc... đều sống bằng nghề dạy học ở trường tư. Nhà thơ Giang Quân trông nom một hiệu sách mang tên Quốc Việt ở 274 phố Khâm Thiên.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Khám phá Tây Bắc tại triển lãm "Tây Park - Ngàn"
    Triển lãm thị giác "Tây Park - Ngàn" được thực hiện dựa trên quá trình 10 năm đi và trải nghiệm tại Tây Bắc (Việt Nam) kết hợp sáng tạo nhiếp ảnh của Nguyễn Thanh Tuấn.
  • Huyện Thanh Oai: Đẩy mạnh triển khai Chỉ thị 30-CT/TU với tuyên truyền các Quy tắc ứng xử
    Huyện Thanh Oai đề cao và phát huy vai trò cá nhân của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh; vai trò trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cộng đồng, mỗi gia đình trong xây dựng và giữ gìn môi trường văn hóa lành mạnh.
  • Các xã, phường mới của Hà Nội sau khi sáp nhập
    Sau khi sắp xếp lại, Hà Nội có 526 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 160 phường, 345 xã và 21 thị trấn.
Đừng bỏ lỡ
Tại sao phải nhìn về văn chương đương đại Việt Nam với mốc lịch sử 1975?
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO