Văn hóa – Di sản

Phạm Thái – một đời thơ khắc khoải

Nguyễn Tiến Thịnh 21/11/2023 11:06

Phạm Thái, còn có tên Phạm Đan Phượng, Phạm Phượng Sinh, hiệu Chiêu Lỳ, sinh ngày 19 tháng Giêng năm Đinh Dậu (26-2-1777) tại làng Yên Thị, xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Ông là con Trạch Trung hầu Phạm Đạt, một quan võ cao cấp thời Cảnh Hưng nhà Lê. Phạm Đạt từng tham gia chống Tây Sơn nhưng không thành.

pham-thai.jpg
Một khung cảnh ở nước ta (khu vực Đà Nẵng ngày nay) tương ứng giai đoạn Phạm Thái còn thanh niên.

Khi phong trào chống Tây Sơn nổ ra thì Phạm Thái cũng cùng cha tham gia cuộc nổi dậy chống Tây Sơn. Sau khi phong trào thất bại, ông phải lẩn trốn khắp nơi. Tiếp nối ý chí của cha, năm 20 tuổi, Phạm Thái đi chu du nhiều nơi, ông muốn tìm và kết bạn với người có chung chí hướng. Khi gặp Phổ Tỉnh Thiền sư (Trương Quang Ngọc) và Nguyễn Đoàn đang gây dựng nghĩa quân chống Tây Sơn, ông viết bài Quân yếu nhằm bàn kế dụng binh, cùng nhau chống tân triều Tây Sơn, nhưng không được dùng. Sau đó, ông đi tu ở nhiều chùa, nhưng chùa mà ông hay đến là chùa Tiêu Sơn ở huyện Yên Phong, trấn Kinh Bắc (tức chùa Thiên Tâm nằm trên lưng chừng núi Tiêu, nay thuộc xã Tương Giang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), đặt đạo hiệu là Phổ Chiêu Thiền sư.

Sau mấy năm đi tu, một người bạn của ông là Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thụ (người làng Thanh Nê, huyện Kiến Xương, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Thái Bình), mời ông lên Lạng Sơn bàn chuyện Cần Vương (phù Lê). Năm sau, khi ông trở về thăm nhà thì được tin Trương Đăng Thụ bị đại thần Vũ Văn Dũng đầu độc chết (Từ điển Văn học (Bộ mới) (2004) ghi “ốm chết), được đem về an táng tại quê nhà. Ông liền đến làng Thanh Nê dự tang bạn, rồi được cha bạn là Kiến Xương hầu Trương Đăng Quỹ giữ lại nhà. Tại đây, Phạm Thái đem lòng yêu mến Trương Quỳnh Như, em gái Trương Đăng Thụ, con gái Kiến Xương hầu Trương Đăng Quỹ. Phạm Thái và Trương Quỳnh Như cùng làm thơ xướng họa, rồi thầm yêu nhau. Từ đó, toàn bộ chí hướng, nghị lực của Phạm Thái đặt hết vào cuộc tình. Mọi sự nghiệp, công danh, kể cả mối hận về sự nghiệp khuông phò chính thống đều bỏ lại đằng sau. Cảm phục tài thơ của ông, Kiến Xương hầu định gả con cho Phạm Thái, nhưng người mẹ muốn gả cho một người giàu có tên là Trịnh Nhị.

Bị ép gả, Quỳnh Như uất hận mà tự vẫn, còn Phạm Thái đau khổ, từ đó đi lang bạt giang hồ. Cuối đời ông chìm đắm trong men rượu, uống rượu làm thơ. Văn thơ của ông phần nhiều nhuốm tư tưởng bi quan và yếm thế. Chưa có một tài liệu nào khẳng định Phạm Thái mất ở đâu, năm nào, song các nhà nghiên cứu đều đưa ra giả thuyết ông mất ở Thanh Hóa năm Quý Dậu (1813), lúc 36 tuổi. Cũng có tài liệu ghi ông mất năm 1814, bởi vì các sáng tác của nhà thơ hiện còn lưu lại đến nay cũng dừng ở thời điểm 1814.

Tác phẩm của Phạm Thái gồm một số thơ văn (chủ yếu bằng chữ Nôm), một số bài tiêu biểu: Tự trào, Đề mỹ nữ đồ, Đề chùa Tiêu Sơn, Đề núi con voi, Họa thơ mừng tiệc sinh nhật Thanh Xuyên hầu, Văn triệu linh (còn có tên Đề nhà nghĩa lư của Long Cơ), Diễn thơ Trương tử lang và bài Văn bia mộ Thanh Xuyên hầu bằng chữ Hán (sau chính tác giả lại dịch ra lục bát), v.v... Đặc biệt, từ mối tình với Trương Quỳnh Như, phạm Thái đã sáng tác một số thơ văn hết sức đặc sắc, trong đó có các bài xướng họa với Quỳnh Như: Cầm tháo, Thuật hoài... Khi Quỳnh Như qua đời, ông có bài Văn tế Trương Quỳnh Như, bài Văn triệu linh Trương Quỳnh Như và một truyện thơ Nôm nhan đề Sơ kính tân trang.

Phạm Thái là con người tài hoa, sống dấn thân, nhập cuộc một cách thiên lệch, cực đoan. Tài năng của ông thể hiện ngay từ những bài thơ Nôm đoản thiên, lối thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với câu chữ sống động, gợi cảm:

Đèn mờ khôn tỏ bóng,

Nguyệt khuyết mái tây hiên.

Xa xa rền tiếng trống,

Lồng lộng chốn binh điền.

(Trời Đông nghe trống đánh)

Ông là người sáng tạo ra những bài thơ yết hậu tinh nghịch, độc đáo, bất chấp và bất cần đời:

Một năm mười hai tháng,

Một tháng ba mươi ngày.

Hũ lớn cạn, hũ bé cạn,

- Say!...

Một bài khác:

Sống ở dương gian đánh chén nhè,

Chết về âm phủ cắp kè kè.

Diêm Vương phán hỏi rằng chi đó?

- Be!...

Thơ văn Phạm Thái mang bóng dáng một con người ngang tàng, thể hiện cái uất ức trước thời thế, bất mãn với cuộc đời. Người ta không tìm thấy một câu thơ, văn nào của Phạm Thái viết về sự kiện nghĩa quân Tây Sơn đánh bại 29 vạn quân xâm lược nhà Thanh. Phạm Thái là con cháu công thần triều Lê, cho nên ông có thái độ bất hợp tác với vương triều Tây Sơn, phản bác lại tất cả những gì mà xã hội mới cho là tốt đẹp. Bài Chiến tụng Tây Hồ phú được viết năm 1802 là một minh chứng cho thái độ cực đoan của Phạm Thái với triều đại Tây Sơn. Đây là bài phú họa lại 85 vận của bài Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng (Nguyễn Huy Lượng giữ chức Hữu thị lang Bộ Hộ dưới triều Lê; đến triều Tây Sơn, ông không câu chấp, hợp tác với chính quyền mới). Toàn bộ bài Chiến tụng Tây Hồ phú thể hiện tính cực đoan của Phạm Thái trước vẻ đẹp của Tây Hồ. Ông nêu ra hàng loạt những hình ảnh đối lập với vẻ đẹp trong bài Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng:

Lở hầm hoang hoác vũng, cát xô lên mỏ phượng lù xù,

Nhà tranh đua điều khấn Phật cầu ma, Đường Quan Thánh khéo

lăng nhăng lít nhít,

Chợ rộn rịp những buôn hùm bán quỷ, mái Trường Lương

nghe láo nháo ỉ o...

Không chỉ đưa ra một loạt các cảnh tượng quái đản về Tây Hồ, Phạm Thái còn triệt để khai thác những khía cạnh trái chiều, biếm họa và vẽ nên những hình ảnh nghịch dị:

Bãi Đuôi Nheo tanh ngắt giống tinh chiên, nước trong hờn vẻ nguyệt chẳng còn ưa, thuyền du tử lái giong ra cho chóng;

Hồ Cổ Ngựa thối hoặng mùi đại tiểu, hoa thơm giận chiều xuân

sao nỡ phụ, lều cử nhân gianh đã nát như vò...

Như vậy, Chiến tụng Tây Hồ phú mang một màu sắc trái ngược hoàn toàn với bài Tụng Tây Hồ, màu sắc bao trùm toàn bộ bài phú là một gam màu xám với nghịch cảnh trớ trêu, những lời lẽ đầy bi thương, tang tóc... Phạm Thái là một trung thần của nhà Lê, ông viết bài này chỉ với mục đích duy nhất là đả phá triều Tây Sơn, không chấp nhận chính quyền Tây Sơn.

Đặc biệt hơn, thơ văn Phạm Thái còn thể hiện một con người tài tử, một người khát khao tình yêu đến tột cùng, bất chấp mọi lễ giáo của xã hội đương thời. Một mặt, trong những bài thơ tự thuật, tự trào, thuật hứng, ông biếm họa cả chính mình và phản ánh tâm trạng kiểu “con người thừa”:

- Có ai muốn biết tuổi tên chi,

Vừa chẵn ba mươi gọi chú Lì...

Tranh vờn sơn thủy màu nhem nhuốc,

Bầu dốc kiền không giọng bét be.

Miễn được ngày nào cho sướng kiếp,

Sống thời nuôi lấy chết chôn đi.

(Tự trào)

- Năm bảy năm nay cứ loạn ly,

Cảm thương thân phậm lỡ qua thì.

Ba mươi tuổi lẻ là bao tá,

Năm sáu đời vua thật chóng ghê.

Một cặp thơ sầu ngâm đã chán,

Vài be rượu lạt uống ra gì.

Thôi về tiên Phật cho xong nợ,

Cái kiếp trần gian sống mãi chi.

(Tự thuật)

Mặt khác, nhu cầu về hạnh phúc, về quyền sống trong thơ Phạm Thái bộc lộ trực diện, mạnh mẽ, sâu sắc, thiết tha. Trong mối tình với Trương Quỳnh Như, Phạm Thái có nhiều bài thơ xướng họa, đề vịnh, tỏ tình thương nhớ thực sự ấn tượng. Khi nàng qua đời, Phạm Thái thể hiện nỗi xót xa, thương cảm. Bài Văn tế Trương Quỳnh Như thể hiện một tâm trạng đau đớn, bi kịch của tác giả. Mở đầu và kết thúc tác phẩm là những câu hỏi được lặp lại nhiều lần, cho thấy sự tiếc nuối như chạm khắc vào thời gian:

Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác ấy bởi vì đâu?

Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẩn trăng rằm!

Ta hăm hở chí trai hồ thi, bởi đợi thời nên nấn ná nhân duyên;

mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh.

Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm;

Chua xót cũng vì đâu? Não nuột cũng vì đâu?

Nay qua nấm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sụt sùi hai hàng tình lệ; giãi bày một bức khốc văn, đốt xuống tuyền đài tỏ cùng nương tử.

Trước một mối tình với nhiều hệ lụy, Phạm Thái như đắm chìm trong nỗi nhớ Trương Quỳnh Như:

Trời xanh thăm thẳm mấy tầng khơi,

Nỡ để duyên ai luống ngậm ngùi.

Buồn đốt lá vàng hương nhạt khói,

Sầu châm chén ngọc, rượu chìm hơi.

Lầu Tây nguyệt gác, mây lồng nóng,

Ải Bắc hồng bay bổng tuyệt vời.

Một mối chung tình tan mấy mảnh,

Suối vàng ai nhắn hộ đôi lời!

Kết tinh câu chuyện tình yêu thực có trong cuộc đời, vào năm Giáp Tí (1804), Phạm Thái đã viết nên truyện thơ Nôm Sơ kính tân trang độc đáo, giàu màu sắc tự thuật. Khác với hầu hết các truyện thơ Nôm đương thời, Phạm Thái xây dựng cốt truyện dựa theo chính mối tình của mình, thậm chí đưa vào đó cả những bài thơ xướng họa của hai người. Về tên các nhân vật, ông chuyển Phạm Thái thành Phạm Kim, Trương Quỳnh Như thành Trương Quỳnh Thư. Tác phẩm Sơ kính tân trang có 1484 câu thơ, chủ yếu là những câu thơ lục bát, có đôi chỗ viết theo thể song thất lục bát, thất ngôn Đường luật... Sơ kính tân trang cho thấy một sự đổi mới mạnh mẽ của thể thơ trữ tình tiếng Việt, hệ thống nhân vật được xây dựng trên cuộc đời của những con người thật. Đây chính là điểm mới so với các truyện Nôm ra đời trước hoặc cùng thời. Sơ kính tân trang cũng cho thấy một kết cấu có phần khác biệt so với kết cấu của truyện Nôm truyền thống, nhưng vẫn giữ được khung mô hình diễn tiến theo ba chặng đường đời: Gặp gỡ - Tai biến - Đoàn tụ. Phạm Thái đã khai thác triệt để các quan niệm của Phật giáo, của văn hóa truyền thống văn hóa dân gian để xây dựng tác phẩm thỏa mãn được các khía cạnh tâm lý của con người: một là không chấp nhận sự thật phũ phàng của bản thân; hai là người tốt sẽ được đầu thai và có cuộc sống hạnh phúc. Nhiều nhà nghiên cứu thường cho rằng tác phẩm truyện Nôm của Phạm Thái không tuân thủ quy tắc của truyện Nôm truyền thống, nhưng chính điều này đã tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc sắc riêng của ông. Hình thức nghệ thuật trong tác phẩm của Phạm Thái là do cảm xúc điều khiển, dẫn dắt:

Lửa ân dập mãi sao không tắt,

Bể ái khơi mà cũng chẳng vơi.

Người con trai viết bức thư bằng thơ thể hiện được niềm xúc động riêng tư qua những hình ảnh thiên nhiên thấm đượm tình trai trẻ:

Oanh yến véo von gọi khách,

Cỏ hoa hớn hở mừng ai.

Gió xuân hây hẩy giục đưa người,

Dễ khiến lòng thơ bối rối...

Vượt qua những giới hạn của khuôn phép lễ giáo, Quỳnh Thư khi nhận được thư của chàng Phạm Kim cũng bày tỏ niềm xúc động, hân hoan chào đón tình yêu như một cơ may và niềm hạnh phúc:

Im im màn sương đợi khách,

Thênh thênh cửa nguyệt chờ ai.

Giai nhân tài tử mấy lăm người,

Trạnh tưởng tâm tình thêm rối...

Không khí tình yêu thấm trong tâm hồn đôi lứa Phạm - Trương:

Lửa ân dập mãi sao không tắt,

Bể ái khơi mà cũng chẳng vơi...

thấm vào những người hầu là Hồng nương và Yến đồng qua những lời đối thoại, những câu thơ tình tứ:

Xin ghi ân với dạ này,

Lấy hoa ắt cũng có ngày trả hoa...

Và thấm cho đến cả người tu hành nơi cửa Phật:

Ra vào tiểu gái lẳng lơ,

Long lanh mắt liếc, say sưa miệng cười...

Đặt trong dòng truyện thơ Nôm truyền thống, Sơ kính tân trang là tác phẩm vượt ra khỏi quĩ đạo vay mượn cốt truyện nước ngoài. Tác giả Phạm Thái không chỉ tạo dựng cốt truyện thuần Việt mà còn đưa chính ngay câu chuyện cuộc đời mình, câu chuyện tình yêu của chính mình trình diễn công khai trước thế gian. Sự thử nghiệm này chưa phải đã đạt thành tựu nghệ thuật thật cao sang nhưng lại ghi nhận sự trưởng thành vượt bậc trên phương diện thể hiện con người cá nhân và ý thức khẳng định quyền sống con người. Trên nền tảng đời sống đô hội thị thành phát triển đã tạo điều kiện sản sinh ra kiểu nhà Nho tài tử tiêu biểu như Phạm Thái, trở thành hiện thân của tình yêu, tự do và những giá trị nhân bản.

Toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Phạm Thái đã khẳng định một con người tài hoa, ngang tàng, phóng túng. Cái tài tử của Phạm Thái đôi khi là ngông nghênh, bảo thủ, chống lại những gì mà bản thân không chấp nhận, cũng không cần xem xét đó là đúng hay sai. Nhưng có lẽ chính đặc điểm này đã tạo nên một Phạm Thái với ngòi bút trữ tình, táo bạo trước lễ giáo phong kiến, tạo nên sự cách tân mang đậm phong cách cá nhân cho thơ trữ tình tiếng Việt. Là người gần như cùng thời với Phạm Thái, Nguyễn Tử Mẫn đã nhận xét: “Ông từ lúc còn bé đến khi nhớn, hết gặp gia biến lại gặp quốc nguy, trải bao cảnh ngộ đắng cay, thế mà văn càng điêu luyện, võ đủ lược thao, cho đến cầm kỳ thi họa cũng đều tinh thạo. Không phải bậc đại tài mà được như vậy sao?” (Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập, 1932).../.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
  • Trần Quang Khải – thượng tướng, nhà thơ
    Trần Quang Khải là con trai thứ ba Trần Thái Tông, sinh năm 1240, mất năm 1294. Dưới triều Trần Thánh Tông (1258-1278), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh đại vương. Năm 1274, ông được giao chức Tướng quốc thái úy.
(0) Bình luận
  • Công bố Di sản Quốc gia nghề làm mão, mặt nạ của đồng bào Khmer
    Nghề làm mão, mặt nạ của người Khmer là nghề thủ công truyền thống được hình thành cách đây hơn 2 thế kỷ nhằm phục vụ cho các loại hình sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật dân gian của đồng bào Khmer mà phổ biến là múa dân gian, múa truyền thống, múa tín ngưỡng, ca kịch,…
  • UNESCO vinh danh Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn
    Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 02/08/1726, mất ngày 11/06/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên).
  • Festival Thăng Long – Hà Nội 2025: Khai mạc chương trình “Hội tụ di sản”
    Sáng 1/11, tại Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám (phường Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội) đã diễn ra lễ khai mạc chương trình “Hội tụ di sản”, đánh dấu sự khởi đầu cho chuỗi hoạt động của Festival Thăng Long – Hà Nội lần thứ nhất.
  • Lựa chọn hiện vật để lập hồ sơ đề nghị công nhận bảo vật quốc gia
    Đến hết năm 2024, Việt Nam đã có 327 bảo vật quốc gia được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận, hiện đang được bảo vệ và phát huy giá trị tại các Bảo tàng, Ban quản lý di tích, một số trung tâm lưu trữ, các tổ chức, cá nhân trên địa bàn cả nước.
  • Tiệc bánh trôi ở đền Hát Môn
    Đền Hát Môn (nơi thờ Hai Bà Trưng), tọa lạc dưới chân đê sông Hát, thuộc xã Hát Môn, TP Hà Nội. Trước đây, hằng năm dân làng tổ chức lễ hội tại đền ba lần, vào các ngày mùng 8 tháng Ba, mùng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp âm lịch.
  • Festival Thăng Long - Hà Nội 2025: Dòng chảy di sản giữa lòng Thủ đô
    “Festival Thăng Long - Hà Nội 2025” sẽ diễn ra trong 16 ngày, với nhiều hoạt động sôi nổi, nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa của Thủ đô. Qua đó, lan tỏa tinh thần "Di sản-Kết nối-Thời đại", khẳng định vị thế của Hà Nội trong Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ra mắt tác phẩm đặc sắc của nhà văn Séc Arnošt Lustig
    Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam vừa phát hành bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết “Lời nguyện cầu cho Katerina” của nhà văn Séc Arnošt Lustig (1926–2011). Đây là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất viết về thảm họa Holocaust do dịch giả Bình Slavická chuyển ngữ.
  • Tôn vinh tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam tại “Ngôi nhà chung”
    Từ ngày 1 đến 30/11/2025, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra chuỗi hoạt động tháng 11 với chủ đề “Đại đoàn kết - Tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam”.
  • Tái hiện sinh động tinh hoa di sản múa cổ Thăng Long - Hà Nội
    Tối 31/10/2025, tại Sân khấu Không gian Biểu diễn Nghệ thuật - Ẩm thực đường phố phường Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội), Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội tổ chức Chương trình biểu diễn “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội năm 2025”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ Đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội” do Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội triển khai năm thứ hai.
  • Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam
    Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã công bố toàn văn các dự thảo văn kiện để lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp Nhân dân, cán bộ, đảng viên. Đây là bước đổi mới quan trọng trong phương thức lãnh đạo, thể hiện tinh thần dân chủ, công khai và cầu thị của Đảng ta.
  • UNESCO vinh danh Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn
    Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 02/08/1726, mất ngày 11/06/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên).
Đừng bỏ lỡ
Phạm Thái – một đời thơ khắc khoải
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO