Hà Nội xưa - nay

Ngọn đèn vàng trong căn bếp phố cổ

Vũ Thị Tuyết Nhung 07:16 17/09/2024

Mỗi lần đi du lịch ở trong và ngoài nước, điều tôi không thích nhất ở các khách sạn là họ toàn dùng ánh sáng đèn vàng, cứ nhờ nhờ, sáng chả ra sáng, tối không ra tối. Đa phần mọi người đều nói dùng đèn vàng như thế mới sang trọng, nhưng tôi thì không. Cũng là bởi cứ mỗi khi gặp ánh đèn vàng, ký ức tôi lại dội về căn nhà xưa cũ trên phố cổ những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước với căn bếp ám khói và ngọn đèn vàng mờ mịt.

3anh-1.jpg
Dấu xưa trong ngôi nhà phố cổ Hà Nội.

Tôi nhớ ngày ấy, đã rất nhiều lần chị em tôi nói với bố đổi cái bóng đèn bếp cho sáng hơn một chút (cốt để làm bếp khỏi nhầm lẫn mắm muối, tương cà hoặc khi dọn cơm đỡ làm vỡ bát đĩa hay vịt dấm, liễn dưa), nhưng bố tôi kiên quyết không:

- Nấu ăn thường ngày chứ có tết nhất cỗ bàn gì đâu mà cần đèn đóm. Mắt con gái sáng choang như thế, cần gì. Tốn điện lắm. Mẹ các con cứ đến kỳ trả tiền điện nước lại kêu ca nhức đầu.

Thời bấy giờ tiết kiệm là quốc sách. Cái bóng đèn vàng trong căn bếp ấy có nhẽ chỉ sáng độ 20W, mà lại được mắc tít trên trần bếp, thêm một cái lồng sắt tròn úp chụp bên trên để cho ánh sáng không tản mát. Đôi khi gió thổi mạnh, cái bóng đèn đung đưa, cái chụp đèn va lắc cắc, nghe đầy những âu lo.

3anh-2.jpg
Một góc không gian căn bếp trong ngôi nhà cổ 87 Mã Mây

Xưa, mỗi sáng sớm, khi trời còn chưa rạng mặt người, bà ngoại tôi đã lọ mọ vào bếp đun nước pha trà. Bà ngoại tôi lúc ấy đã ngoại bảy mươi, thế mà bà vào bếp khơi hé lò than quả bàng đun nước siêu nước nhỏ trong bóng tối mà chẳng hề bật đèn. Sau đó bà ngồi độc ẩm trên chiếc tràng kỷ kê bên hiên nhà ngang sát bếp chừng vài ba mươi phút trong ánh sáng mơ màng từ khoảng sân trời hắt vào. Bà cũng chẳng bật cái đèn sân mắc phía dưới hiên nhà ngang, ngay trên bức tường kê chiếc tràng kỷ. Uống trà sáng cần gì phải bật đèn chứ? Tốn điện báu ngọc gì? Bà tôi hay nói thế nếu mẹ hay dì tôi thức giấc đi qua nhắc nhở:

- Sao bà không bật đèn cho sáng? Tối thế này bà lập cập đun nước khéo mà bỏng tay, bỏng chân.

- Phỉ phui cái mồm. Bỏng làm sao được. Ừ thì bật đèn lên! Gọi các con dậy đi. Khơi hộ tôi cái bếp than lên. Tôi đi rang cơm cho chúng nó ăn rồi đi học.

Bà ngoại tôi rang cơm khéo lắm. Mỗi khi rang cơm, bà cho một đôi thìa mỡ lợn vào chiếc chảo gang to đun sôi rồi thả hành khô thái nhỏ phi thơm lên, đổ cơm nguội vào chảo và đảo nhẹ nhàng để cơm thấm mỡ đều. Tiếp đó, bà cho thêm một đôi thìa nước mắm hay xì dầu, nắm dưa cải chua đã vắt ráo và mươi cái tóp mỡ vàng ươm. Rồi bà lại kỳ công đảo cơm lần nữa trước khi rắc vào dúm hành hoa đã thái nhỏ.

- Nào các cháu đã đánh răng rửa mặt xong chưa? Vào ăn cơm rồi đi học kẻo muộn. Tắt hộ bà cái đèn bếp. Tắt luôn cả đèn sân nữa. Trời sáng rõ mặt người rồi còn gì.

Mùi cơm rang thơm phức dậy lên. Chị em tôi rào rào xúc cơm trên chiếc tràng kỷ trong ánh sáng tinh mơ thoáng hiện từ khoảng không của mảnh sân trời trước gian nhà ngang. Đứa nào may mắn vớ được miếng tóp mỡ trong bát thì “ngậm hột thị” sướng âm thầm chả dám khoe, sợ chị em ghen tỵ. Ừ mà trời đã sáng hẳn đâu mà nhòm thấy chứ. Sợ gì! Ngày ấy cứ 6 giờ sáng là học sinh đã cắp cặp đến trường, chứ không đi học muộn như bây giờ.

Cũng như những gia đình thị dân Hà Nội vào những năm ấy, bếp nấu nhà tôi thường là dùng củi gỗ hay than cám hoặc bếp mùn cưa. Có khi đun cả trấu hoặc lá rụng quét ở ngoài đường về. Khói nhiều lắm. Nhất là vào những khi trời mưa ẩm, củi ướt, than nhão. Thi thoảng bố tôi lại bắc cái ghế nhỏ lấy chiếc giẻ cẩn thận lau chiếc bóng đèn cho sáng lại, rồi vặn cái bóng cho chắc chắn thêm.

Tôi không nhớ là cái bóng đèn ấy đã tồn tại bao năm, nhưng tôi nhớ là cả thời con gái của tôi, nó chưa bị cháy hỏng phải thay thế bao giờ. Mà nói chi đèn bếp, đèn nhà trên, nhà dưới, đèn cầu thang, mỗi nơi cũng chỉ độc nhất một cái bóng đèn vàng chỉ đủ sáng. Có nhẽ chưa thấy cái bóng đèn nào đủ 100W, trừ mỗi dịp lễ tết, bố tôi lấy từ trong ngăn tủ chùa trên gác 2 cái dây điện dài và bóng điện sáng quắc đem mắc ngoài sân nhà cho mẹ con dì cháu tôi thức đêm vo gạo, tẩy bóng, luộc măng, đồ xôi. Và thêm nữa, một dây đèn nhấp nháy xanh đỏ để giăng lên cây quất cây đào trong phòng khách nhà ngoài. Những thời khắc tuyệt vời ấy cũng chỉ thoáng chốc vài ba ngày là chấm dứt. Những chiếc bóng đèn, dây đèn ấy lại trở về ngủ yên mơ màng trên ngăn tủ chùa trên gác 2. Và cái một điệp khúc mà tôi nhớ nhất là trước khi đi ngủ, tối nào cũng như tối nào vẫn là câu hỏi giọng khàn khàn của bố:

- Đèn bếp, đèn sân, đèn cầu thang đã tắt hết chưa các con?

- Dạ. Tắt hết rồi bố ạ.
Bố hỏi vậy thôi, chứ bố biết là chị em tôi đã chia phiên tắt đèn cả tuần rồi. Chứ nếu tối khuya hay sáng sớm bố bất chợt thức dậy mà thấy trong nhà còn le lói chút ánh sáng đèn thì có đứa ăn đòn là cái chắc.

Tôi về sống ở làng Giáp Nhất quận Thanh Xuân đã vừa tròn 20 năm. Ngay từ ban đầu, hệ thống chiếu sáng trong nhà đã được trang bị khá đầy đủ, chủ yếu là ánh sáng trắng, trừ đèn ở các khung tranh trang trí và đèn phòng ngủ là ánh sáng vàng. Sau này, theo trào lưu, nhà tôi cũng thay bóng điện thường bằng bóng điện cảm ứng để tiết kiệm điện. Đèn trong bếp và phòng ăn thì toàn ánh sáng trắng, nhặt rau thái thịt sạch sẽ tiện lợi, màu sắc món ăn thức uống nhìn cũng nổi trội hấp dẫn hơn. Thế mà không hiểu sao, khi nghe bước chân các con lên cầu thang lúc đã quá khuya, tôi bất chợt mơ màng tỉnh giấc và hỏi vọng:

- Các con đã tắt hết đèn bếp, đèn sân và đèn cầu thang hay chưa?

- Ơ kìa mẹ, toàn đèn cảm ứng rồi. Mẹ quên à?

Ừ nhỉ? Đúng là quên thật rồi. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua còn gì nữa. Tiết kiệm vẫn là quốc sách. Tuy nhiên nay đã khác xưa nhiều lắm. Đôi lúc tôi ngậm ngùi nhớ lại căn bếp xưa, cái chạn gỗ tróc sơn, chiếc cối đồng nặng trịch, khúc chày gỗ nham nhở, vành khuôn tráng bánh cuốn mỏng manh… tất thảy không có bất cứ vật dụng nhà bếp nào gọi là máy móc dùng tay chứ chưa nói đến vật dụng chạy điện. Chỉ có mỗi ngọn đèn vàng có thể gọi là hiện đại nhất trong căn bếp. Nhưng ánh sáng của nó lại gợi lên nỗi buồn của một thời khó khăn thiếu thốn mà tất thảy ai ai cũng không bao giờ muốn phải trải qua thêm một lần nữa trong đời. Và mỗi lúc ngọn đèn vàng hiện về trong ký ức, tôi hằng thương bố mẹ, thương bà đến quặn thắt ruột gan./.

Bài liên quan
  • Khôi phục và bảo tồn giống sen Bách Diệp nổi tiếng của Tây Hồ
    Chiều 12/7, Sở NNNT thành phố Hà Nội phối hợp với Viện nghiên cứu rau quả (Bộ NNPTNN), UBND quận Tây Hồ và Hội khoa học phát triển nông thôn Việt Nam tọa đàm, thảo luận về việc bảo tồn và phát triển hoa Sen Việt Nam. Đây là một trong những sự kiện trong khuôn khổ Lễ hội Sen Hà Nội năm 2024.
(0) Bình luận
  • Ký ức Hà Nội thời bao cấp qua di sản kiến trúc
    Lịch sử đô thị Hà Nội có tầng tầng, lớp lớp các công trình kiến trúc được chia thành nhiều giai đoạn. Nếu như các công trình kiến trúc Pháp là minh chứng cho bước đầu du nhập văn minh phương Tây thì những công trình mang phong cách kiến trúc Đông Dương lại là sự kết hợp độc đáo giữa văn hóa phương Đông và phương Tây. Những công trình kiến trúc thời kì 1954 - 1986 đã thể hiện một tiếng nói mới, có sự kế thừa, học hỏi và sáng tạo, mang bản sắc kiến trúc Việt Nam, góp phần kiến tạo xã hội trong tâm thế một dân tộc được làm chủ vận mệnh của mình.
  • Đô thị sinh thái Thăng Long - Hà Nội là cơ sở hình thành văn hóa thanh lịch, giá trị sống hướng tới sự an bình
    GS-TS. Đặng Cảnh Khanh - Viện trưởng Viện nghiên cứu truyền thống và phát triển, nhận định, đô thị sinh thái Thăng Long - Hà Nội chính là cơ sở cho sự hình thành văn hóa thanh lịch và giá trị sống hướng tới sự an bình. Sự thanh lịch của con người đô thị Thăng Long, trước hết có lẽ được bắt đầu hình thành từ chính cảnh sắc của Thăng Long – Hà Nội.
  • Văn hóa Thăng Long - Hà Nội trở thành tâm điểm của những sáng tạo và phát triển văn hóa
    Theo GS.TS. Đặng Cảnh Khanh (Viện trưởng Viện nghiên cứu Truyền thống và phát triển), tính chất thanh cao, tôn trọng sự hài hòa và an bình khiến cho văn hóa Thăng Long - Hà Nội trở thành tâm điểm của những sáng tạo và phát triển văn hóa. Bởi vậy, UNESCO phong tặng danh hiệu “Thành phố hòa bình” cho Hà Nội là đúng đắn.
  • Đêm hồ Gươm kỳ diệu
    Sáng rực, lung linh, huyền ảo, thơ mộng - những vòm cây ven hồ sẫm tối nhả ra muôn ngàn trái quả nhấp nhánh như trong một đêm địa đàng, một vườn cổ tích. Ấy chính là quang cảnh hồ Gươm những ngày lễ Tết trong ký ức tuổi thơ tôi.
  • Chuyện ở hàng nước mắm
    Những năm 1958 - 1959, Hà Nội chưa bước vào nền kinh tế bao cấp, các cửa hàng tư nhân lâu đời vẫn hoạt động buôn bán ở khắp các phố phường. Dạo ấy, tôi đã bảy, tám tuổi nên thường được bà ngoại và mẹ sai đi mua những đồ lặt vặt cho gia đình.
  • Kiến trúc Thủ đô (1954 - nay): Dấu ấn qua mỗi chặng đường
    Sau ngày tiếp quản (10/10/1954), từ một thành phố nhỏ bé, với lượng dân số ít, Hà Nội đã vươn tầm trở thành thành phố lớn trong khu vực và thế giới với không gian kiến trúc đô thị đa hệ, giàu bản sắc và phát triển theo hướng văn minh hiện đại. Nhìn lại chặng đường 70 năm qua, có thể thấy ngành kiến trúc quy hoạch xây dựng đã có những đóng góp đáng kể và để lại nhiều dấu ấn. Đây chính là những bước đệm, tạo đà cho sự phát triển của đô thị Hà Nội trong tương lai.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • [Podcast] Bánh tẻ Cầu Liêu – Món ăn thấm hồn quê của làng Thạch xá
    Vùng đất xứ Đoài không chỉ nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh, mà còn có nhiều món ăn ngon, trở thành nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của xứ Đoài, trong đó có món Bánh tẻ. Bánh tẻ xuất hiện sớm tại 2 địa danh của vùng xứ Đoài xưa là Cầu Liêu (Thạch Thất) và Phú Nhi (Sơn Tây). Nếu như bánh tẻ Phú Nhi được gói bằng lá dong, lá chuối như nhiều loại bánh tẻ khác thì bánh tẻ Cầu Liêu so với những nơi khác là bánh được gói bằng loại lá đặc biệt – lá tre mai.
  • Bản hòa ca Hà Nội qua tranh vẽ
    70 tác phẩm đa dạng về chất liệu từ màu nước, ký họa, lụa, sáp dầu... với chủ đề về Hà Nội sẽ được giới thiệu tới công chúng tại Trung tâm thông tin triển lãm 93 Đinh Tiên Hoàng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội từ 20/11 đến 28/11/2024.
  • Khai mạc triển lãm ảnh “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”
    Chiều 18/11, tại Trung tâm Giám định và Triển lãm tác phẩm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh (số 29 Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức khai mạc triển lãm ảnh “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”.
  • Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Mường được công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia
    Việc công nhận “Nghề dệt thổ cẩm của đồng bào dân tộc Mường xã Kim Thượng, xã Xuân Đài” là Di sản văn hóa phi vật thể cũng đánh dấu hướng phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa đặc trưng ở Phú Thọ.
  • Trưng bày chuyên đề “Hoàng đế Lê Thái Tổ - Người khai sáng vương triều Hậu Lê”
    Chào mừng Ngày Di sản Văn hoá Việt Nam (23/11/2005 - 23/11/2024), sáng 18/11, Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, Ban Quản lý Di tích danh thắng Hà Nội tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề: “Hoàng đế Lê Thái Tổ - Người khai sáng vương triều Hậu Lê”. Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ Nguyễn Văn Phong tới dự.
  • Khám phá Hà Nội qua triển lãm "Mười Bốn Art Show 2024"
    Triển lãm “Mười Bốn Art Show 2024” đang diễn ra tại không gian Aqua Art - Hanoi Aqua Central 44 Yên Phụ, Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội.
  • Hang xóm Trại và Mái đá làng Vành chính thức nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt
    Di tích khảo cổ Hang xóm Trại và Mái đá Làng Vành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình vừa được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.
  • Ra mắt hai cuốn sách văn hóa Việt tại Trung Quốc
    Trong khuôn khổ của Tuần lễ Văn hóa sách Trung Quốc – Đông Nam Á 2024 được tổ chức tại Thành phố Nam Ninh (Trung Quốc), Công ty Cổ phần Văn hóa Chi (Chibooks) đã tổ chức lễ ra mắt sách “Vắt qua những ngàn mây” và “Người Hà Nội, chuyện ăn chuyện uống một thời” ấn bản tiếng Trung vào chiều 16/11. Đây là lần đầu tiên sách Văn hóa Việt được dịch ra tiếng Trung và được xuất bản chính thức tại Trung Quốc. Sự kiện do Công ty Cổ phần Văn hóa Chi và NXB Khoa học Kỹ thuật Quảng Tây đồng tổ chức.
  • Lễ hội thiết kế sáng tạo Hà Nội 2024 khẳng định thương hiệu “Thành phố sáng tạo”
    Tối 17/11, Lễ hội Thiết kế sáng tạo Hà Nội 2024 “Giao lộ Sáng tạo” đã kết thúc với thành công ngoài mong đợi, tạo dấu ấn trong lòng nhân dân Thủ đô và du khách.
  • [Podcast] Quốc Tử Giám - Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam
    Văn Miếu - Quốc Tử Giám là biểu tượng của “nguyên khí quốc gia”, nơi đây đào tạo sĩ tử và hơn thế nữa, là nơi tôn vinh nhân tài. Hiện nay, Di tích đặc biệt quan trọng này đang là nơi lưu giữ những hiện vật vô cùng giá trị: Bia Tiến sĩ là Bảo vật Quốc gia, Di sản tư liệu thế giới; Khuê Văn Các được chọn là Biểu tượng của Thủ đô Hà Nội…
Ngọn đèn vàng trong căn bếp phố cổ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO