Tác giả - tác phẩm

Cùng “nhặt mưa” với “đứa trẻ biết già”

Lê Anh Phong 20/10/2023 06:04

Trong đời sống thi ca, khái niệm “trẻ” chỉ mang tính tương đối, và không phải lúc nào “trẻ” cũng đồng nhất với “mới”. Nhưng đọc “Những đứa trẻ nhặt mưa” (Nxb Hội Nhà văn, 2023) thi tập thứ ba của Trần Thị Hằng - nhà thơ trẻ thuộc thế hệ 9X, tôi đã gặp sự đồng nhất ấy, và muốn cùng “nhặt mưa” với “đứa trẻ biết già”.

bia-sach-nhat-mua.jpg

Trần Thị Hằng tốt nghiệp Khoa Sáng tác – Lý luận Phê bình Văn học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, được tiếp nhận nhiều khuynh hướng tự do trong sáng tạo, nữ nhà thơ của lứa 9X này nhập ngay vào dòng chảy của những người viết trẻ hôm nay. Không có sự níu kéo từ hệ hình cũ, tác giả sáng tác trong bối cảnh và tâm thế hậu chiến, trong một “thế giới phẳng” và trong đời sống của thời chộn rộn.

Tập “Những đứa trẻ nhặt mưa” gồm 29 bài, hoàn toàn là thơ không vần, thơ tự do, câu hay nhiều hơn bài hay. Dường như bỏ qua giãi bày, thơ Trần Thị Hằng thường được biểu đạt bằng những ý niệm mới, những ảnh hình lạ, mang hơi thở cộng sinh trong không gian nhiều chiều của tưởng tượng: Giữa giấc mơ/ Dòng sông cạn/ Cánh rừng đâu chỉ có loài chim/ Vàng son thở từng vách núi”… Chữ nghĩa thường gợi suy tư: “Bóng quá khứ/ Bay qua cửa sổ”, “Ngày lao vào đêm”, “Vinh quang mơ hồ rơi”...

Với cảm thức mới, lối nói mới, thơ Hằng nhiều khi ẩn hiện tính phi logic thường có ở giấc mơ, hiện lên những khoảng trống cho tiếp nhận. Ở một chừng mực nào đó, có thể “gây khó” cho bạn đọc truyền thống. Ví dụ như: “Kéo dài hơn/ Dài hơn một chút/ Tôi thu tóc mình ngắn lại/ Người đi qua”, “Ta lẫn vào trong lá/ Thở lời cây…/ Mở cánh cửa đi vào căn phòng khác/ Gió đã thôi đêm”, “Dẫu chỉ nhận về củi khô/ Bước chân trên đường xa ngái”, “Bát đũa xô nhau giật mình chắp vá”… Tác giả đã viết bằng diễn ngôn của thế hệ mình. Phải chăng, ở phía tiếp nhận cũng cần một cách đọc mới, một cái nhìn cởi mở và dân chủ.

Thực ra bên cạnh một vài bài “khó đọc”, phần lớn thơ của Trần Thị Hằng không phải là “khó hiểu”. Kiệm lời, không miên man, thơ thường được viết ngắn. Không đại tự sự, không tuyên ngôn, thơ như lời thầm, ý tứ lúc hiển thị, lúc mơ hồ bảng lảng, khi tự thoại, khi chất vấn… Dẫu có chạm vào thế sự vẫn nói bằng giọng của mình, giọng trầm trong cảm niệm, trong mối quan hệ bản ngã và tha nhân. Hãy đến với cánh “Rừng” trong thơ Hằng: “Không tiếng chim kêu/ Không chân thú dữ/ Loài sâu ẩn mình…/ Không tiếng bom gầm réo/ Không máy bay thả chất độc lụi tàn/ Suối vẫn khô/ Cây vẫn đổ…/ Chúng mình chọn lặng im/ Như con sâu chọn nép mình trong lá/ Tiếng thét nơi cuối cùng/ Của chiếc xe bánh xích/ Cuốn vào cuộc mưu sinh/ Mồ hôi chưa vơi bàn tay đã rỗng/… Họ đố nhau về ngày mai/ Về những vì sao chưa bao giờ chạm tới/ Họ ngủ quên…/ Bầy kiến đỏ đen mải miết dắt nhau tìm cỏ mật”. “Rừng” hiện lên trong giấc “ngủ quên”, trong im lặng đáng sợ khi “loài sâu ẩn mình”. Không đứng ngoài cánh rừng ấy, tác giả chọn điểm nhìn của người trong cuộc. “Chúng mình chọn lặng im/… Họ đố nhau về ngày mai”, bên cạnh sự giễu nhại, câu thơ làm người đọc giật mình nhìn lại những ngày ta đang sống. Đâu có “lặng im”, sự thao thức và lối nói đã mang đến ấn tượng từ bài thơ thế sự. Trong tập thơ, những bài như thế không nhiều, nhưng với góc nhìn ấy, suy tư ấy đủ làm ta tin cậy và trân quý một nhà thơ trẻ giữa bao điều còn chống chếnh hôm nay. Với chữ nghĩa và tâm thế đó, thơ trẻ nhưng không vô tình, không thờ ơ trước cuộc đời, trước con người.

Thơ Trần Thị Hằng trẻ trung, được dệt từ tơ lòng, từ khoảnh khắc nhu mì dùng dằng của phái tính, từ tình thế của phức cảm: “Sưởi tình yêu bằng hương/ Không ấm được gió lùa khe cửa”, “Sương bám đầy trên mái/ Người về lợp lại chênh vênh”, “Nước tìm mây che mặt”… Không như những thi ảnh màu mè chống trôi của dòng thơ diệu vợi, cũng không phải là thứ thơ dễ cắt nghĩa, dễ thuyết minh theo lối cũ. Mới mà không sa vào hình thức, thơ Hằng thường hướng về bản thể. Hình ảnh người mẹ mang đến vẻ đẹp trong liên tưởng và nhiều suy tư cảm động: “Ngày sinh con/ Mẹ đã muốn những gì?/ Cánh đồng mẹ/ Giấc mơ con/ Đêm ngàn sao rơi rụng/… Sao mẹ lặng im?”. Trọng tình, tác giả nhớ về người bạn thơ đã trở thành mây trắng: “Người về nơi ấy/ Có còn mùa cúc trắng/ Ga cuối cùng/ Bạn vẫn ngồi đây/ Đợi nắng/ Nắng cafe nâu loang…”. Câu thơ đầy đặn, có cái gì rưng rưng trong nắng của mơ hồ sóng sánh. Quán cafe đã trở thành nhà ga của kỷ niệm, trở thành chứng nhân trong màu hương ký ức “nâu loang”.

Hướng về nỗi buồn, nỗi cô đơn, đi giữa miền sáng tối là những yếu tính của thơ hậu chiến. Có thể dễ dàng nhận ra đặc điểm ấy trong thơ nữ, thơ Hằng là một ví dụ: “Em xếp cánh hoa/ Gói lại thì thầm/ Sao hoa không nở?”, “Chỉ còn sự dại khờ/ Và mầm cây/ Đang lên gai nhọn/ Trong trái tim em”… Viết nhiều về tình yêu đôi lứa nhưng thơ Trần Thị Hằng không ngôn tình son phấn: “Yêu anh bằng mùa thu/ Bông cúc dầm mình”. Có lúc “Chỉ còn sự dại khờ/ Và mầm cây/ Đang lên gai nhọn/ Trong trái tim em”. Còn đây là bất chợt của xao xuyến: “Chưa bao giờ/ Em muốn rơi vào vòng tay lạ/ Thấy mùi nước mắt/ Bước chân chạy khỏi bóng mình”. Đó là những câu thơ được viết “Trong thế giới người đàn ông lạ mặt”. “Bước chân chạy khỏi bóng mình”, mấy khi gặp được một câu như thế trong thơ, mà lại là thơ trẻ.

Nhiều khi người thơ này như đi qua đám đông, chứng nhân của buồn vui lẫn lộn, đi qua những mắc mớ phồn tạp vốn có của đời sống, nơi “Tóc rối/ Lời rũ mặt hồ”, nơi “Lối hoa tràn lối cỏ”, nơi “Người đi qua” nhau, “Người đuối trên ao cạn”. Thôi “đừng đổ lỗi cho nhau”, một nét “Hạnh” ánh lên từ thơ, ánh lên từ giao lộ cuộc đời.

Cảm thức về thời gian trong thơ Trần Thị Hằng thường gắn liền với khát vọng về cái mới, về sự đổi thay. Bởi vì “Mọi thứ ở đây lâu quá/ Ấm trà đã lên men”, bởi vì “Những lời quanh co/ Những tiếng cười nhạt thếch”. Dẫu biết rằng “Phá đi/ Mà không mới nổi” luôn là thử thách lớn không chỉ đối với thơ, trên con đường thanh tân đi tới.

Viết ngắn thường đòi hỏi dồn nén ý tứ, thậm chí tối giản. Nếu không, vô tình bài thơ chỉ là lát cắt mỏng dễ trôi đi. Hơn nữa, “cấu trúc lỏng”, một đặc điểm của thơ trẻ hôm nay, nếu người viết không làm chủ, bài thơ dễ sa vào tứ tán, hoặc trở thành lý do của mơ hồ… Cũng nên tránh việc lặp lại hình ảnh, lặp lại ý thơ. Ví dụ: “Đừng cầm tay phải bỏng” (Lửa về cho em) – “Đừng chạm bàn tay nỗi buồn như lửa” (Nỗi buồn như lửa)…

Hay như trong “Lặng im” - bài thơ như ẩn ức của giấc mơ về những cơn lũ từ lòng tham, từ những nhát rìu vô cảm. Bóng ngày vẫn mong manh trước gió. “Sông vẫn lặng im” nên “Biển đầy nước mắt”:“Có những ngày như cây trước gió/ Ai người tham quả/ Quên phần chim muông”.

Trên hành trình thi ca, trong sáng tạo nếu không cô đơn, không lặng lẽ khó có thể đi xa. Tôi cố gắng đọc tập thơ này bằng một tâm thế khác với tuổi của mình, hy vọng cùng “nhặt mưa” với “đứa trẻ biết già”. Và sau cơn mưa ấy, có một nhà thơ trẻ đang đến từ ban mai…

Bài liên quan
  • Giới thiệu cuốn sách "Cuba -Việt Nam: Hai dân tộc, một lịch sử"
    Chiều 3-10, tại Hà Nội, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức giới thiệu cuốn sách “Cuba - Việt Nam: Hai dân tộc, một lịch sử” của Tiến sĩ Ruvislei González Saez, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Cuba - Việt Nam, Giám đốc Chương trình Quan hệ quốc tế tại Cuba.
(0) Bình luận
  • Khúc ca tình mẫu tử khi đối thoại với thời gian
    Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai thuộc đề tài quen thuộc nhưng luôn mang sức gợi lớn: đề tài người mẹ. Bài thơ được chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn 7 (tập 1, bộ Cánh diều). Xuyên suốt bài thơ là bóng dáng vất vả, tảo tần của người mẹ gắn liền với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm mà người con dành cho mẹ. Bằng nét bút tinh tế và nghệ thuật biểu đạt đầy sáng tạo, bài thơ tựa như một khúc ru trầm, nhẹ nhàng mà da diết, chạm đến từng góc khuất trong tâm hồn người đọc.
  • Cô giáo Lan và những bài học không chỉ đến từ kiến thức
    Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, có những khoảnh khắc và những con người đặc biệt mà ta không thể nào quên. Đối với tôi, một trong những người để lại ấn tượng sâu sắc nhất là cô Lan - giáo viên trường Tiểu học Liên Bảo (Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc).
  • Ra mắt hai cuốn sách văn hóa Việt tại Trung Quốc
    Trong khuôn khổ của Tuần lễ Văn hóa sách Trung Quốc – Đông Nam Á 2024 được tổ chức tại Thành phố Nam Ninh (Trung Quốc), Công ty Cổ phần Văn hóa Chi (Chibooks) đã tổ chức lễ ra mắt sách “Vắt qua những ngàn mây” và “Người Hà Nội, chuyện ăn chuyện uống một thời” ấn bản tiếng Trung vào chiều 16/11. Đây là lần đầu tiên sách Văn hóa Việt được dịch ra tiếng Trung và được xuất bản chính thức tại Trung Quốc. Sự kiện do Công ty Cổ phần Văn hóa Chi và NXB Khoa học Kỹ thuật Quảng Tây đồng tổ chức.
  • Họa sĩ Xu Man trở thành nguyên mẫu trong tác phẩm của nhà văn Trung Trung Đỉnh
    Lấy cảm hứng từ cuộc đời thực của họa sĩ người Bahnar Xu Man, trên phông nền là một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc, nhà văn Trung Trung Đỉnh đã viết tác phẩm “Con thiêng của rừng”. Sách thuộc tủ sách Văn học thiếu nhi của NXB Trẻ, hướng đến bạn đọc từ 12 tuổi trở lên, nhưng đây cũng là một tác phẩm thú vị đối với người lớn.
  • Ra mắt cuốn sách “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
    Ban Nội chính Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức Lễ ra mắt cuốn sách “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Cuốn sách do Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc chỉ đạo biên soạn.
  • “Vang danh nghề cổ” - series tranh truyện độc đáo về làng nghề thủ công Việt Nam
    NXB Kim Đồng vừa ra mắt bộ sách “Vang danh nghề cổ” - series tranh truyện độc đáo giới thiệu về các làng nghề thủ công truyền thống của Việt Nam dành cho bạn đọc nhỏ tuổi.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Khám phá Tây Bắc tại triển lãm "Tây Park - Ngàn"
    Triển lãm thị giác "Tây Park - Ngàn" được thực hiện dựa trên quá trình 10 năm đi và trải nghiệm tại Tây Bắc (Việt Nam) kết hợp sáng tạo nhiếp ảnh của Nguyễn Thanh Tuấn.
  • Khúc ca tình mẫu tử khi đối thoại với thời gian
    Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai thuộc đề tài quen thuộc nhưng luôn mang sức gợi lớn: đề tài người mẹ. Bài thơ được chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn 7 (tập 1, bộ Cánh diều). Xuyên suốt bài thơ là bóng dáng vất vả, tảo tần của người mẹ gắn liền với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm mà người con dành cho mẹ. Bằng nét bút tinh tế và nghệ thuật biểu đạt đầy sáng tạo, bài thơ tựa như một khúc ru trầm, nhẹ nhàng mà da diết, chạm đến từng góc khuất trong tâm hồn người đọc.
  • Tăng cường xây dựng người Ba Đình văn minh, thanh lịch, nghiêm túc, nghĩa tình
    Quận ủy Ba Đình đã tổ chức Hội nghị học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chuyên đề năm 2024 về “Phát huy giá trị văn hóa truyền thống”; triển khai Kế hoạch của Ban Thường vụ Quận uỷ về triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 19/2/2024 của Thành uỷ Hà Nội “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng về xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh”; phát động cuộc thi chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 4.
  • Phát huy vai trò của Phụ nữ Thủ đô trong xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch
    Tiếp tục triển khai hiệu quả 02 bộ Quy tắc ứng xử của Thành phố là một trong những nội dung trọng tâm được đề cập đến trong Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 19/2/2024 của Thành uỷ Hà Nội “Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng về xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh”.
Đừng bỏ lỡ
Cùng “nhặt mưa” với “đứa trẻ biết già”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO