Văn hóa – Di sản

Chín thập niên bản đàn xuân Hà thành

Nhà văn Nguyễn Trương Quý 12/02/2024 06:55

Âm nhạc là một nguồn giải trí quan trọng của đời sống thị dân Hà thành, với tiếng tơ tiếng trúc đã thành bạn với hoa đào cười gió đông, với cánh én liệng lưng trời. Bên cạnh truyền thống khai bút đầu năm đã tạo ra một dòng thi ca xuân, những bài hát nói ca trù chủ đề xuân còn tạo ra một lối sinh hoạt văn nghệ đặc trưng của giới tài tử Hà thành.

001hihljkhk.jpg
Bìa một số bản nhạc xuân thập niên 1940

Làn gió mới của trào lưu Âu hóa đã đem đến hình thức tân nhạc vào giữa thập niên 1930, trong ảnh hưởng của trào lưu những sản phẩm tân thời như báo chí, văn xuôi, Thơ Mới, những bài hát do người Việt sáng tác theo hình thức ca khúc Tây phương đã xuất hiện như một sự thể nghiệm. Dấu vết của những tứ thơ xuân cổ truyền rất đậm nét trong lời ca các bài hát, nối dài một không gian tao nhã của những cung đàn nhịp phách xuân. Năm 1938 được đánh dấu như năm trình làng những bài tân nhạc, cho dù đã được một số nhạc sĩ trẻ sáng tác trước đó. Ngay năm này, những bài hát chủ đề mùa xuân đã được giới thiệu, bắt đầu với các nhóm âm nhạc đầu tiên của Hà thành như Tricéa và Myosotis (Hoa Lưu Ly). Nhóm Tricéa với Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn đã có những bài hát về mùa xuân mang các điệu nhạc sôi động như “Xuân nghệ sĩ hành khúc” (Lê Yên, 1937) hay lả lướt yêu kiều như “Trên thuyền hoa”, “Cười trong nắng xuân” (Văn Chung, 1939), “Sao hoa chóng tàn” và “Trong muôn hoa” (Doãn Mẫn, lời J. Lệ Thủy và Phi Tâm Yến, 1940-1941). “Đối thủ” của họ, nhóm Hoa Lưu Ly cũng tô đậm cảm thức mùa xuân trong những bài hát đầu tiên: “Tâm hồn anh tìm em” (Dương Thiệu Tước, 1936), “Xuân về”, “Trời thanh” (Thẩm Oánh, 1938), “Trời xanh thẳm” (Dương Thiệu Tước, lời Văn Chung, 1942). Những tiết điệu rộn ràng đã gợi nên đặc điểm lễ hội, khá mới mẻ trong tương quan với các làn điệu xuân nhiều phần ảo não, như một lời tuyên bố đầy hào hứng về tâm thế của người nghệ sĩ trước cuộc đời mới: “Xuân về, ta chào xuân khắp nơi, chào xuân thắm tươi, chào xuân với bao ngày vui” (Xuân nghệ sĩ hành khúc).

anh-5hghgkh.jpg

Thuở bình minh của tân nhạc, những bài hát mùa xuân gợi một dáng vẻ cổ điển là nhờ các tác giả diễn tả một không khí của lối hát thơ, những ca từ bay bướm, như “Bản đàn xuân” (Lê Thương, 1939) dựa trên một thức điệu ngũ cung gợi nhớ những khuôn phách ả đào:

Đàn xuân tủi lòng nẩy cung đợi mong
Reo ai oán trong khuê phòng
Tình tang tang tính tính tình
Lạnh lùng hơn gió ngoài đồng
Ngồi se chỉ hồng, hỏi ai hiểu không
Tiếng oanh muốn nhắn lời thay những tiếng ngân
Như chiếc bóng người chưa dám nhắc chân
Chờ tin thơ chim hoàng oanh đưa
Còn xa bay trong áng sương mờ.

Lời ca tràn ngập những hình ảnh mơ hồ, vẽ ra khung cảnh một người con gái đợi chờ người tình nơi xa. Hình tượng này vốn dĩ quen thuộc trong những bài thơ xưa hay các truyện thơ như “Cung oán ngâm khúc”, “Chinh phụ ngâm”, đến lúc này trở thành một chất liệu đậm đặc trong Thơ Mới lẫn các bài hát tân thời dù là giai điệu valse tình tứ kiểu Tây phương như “Hồn xuân” (Nguyễn Xuân Khoát, lời Thế Lữ, 1939), “Xuân yêu đương” (Thẩm Oánh, 1939) và nhất là “Cung đàn xưa” (Văn Cao, 1942). Những điệu valse gợi nhớ không khí lễ hội, tỏ ra ăn khớp với những lời ca bay bổng, lãng mạn:

Hồn cầm phong sương, hình dáng xuân tàn
Ngày dần buông trôi, sầu vắng cung đàn
Chiều năm xưa gót hài khai hoa, mắt huyền
lưu xuân, dáng hồng thơm hương…

Một bài báo đương thời đã ca ngợi những bài hát của các nhạc sĩ trẻ như Thẩm Oánh: “Bài hát được xuất bản sau cùng và đã nổi tiếng, “Hồ xưa”, là một điệu valse chậm, có một giai điệu rất riêng, gợi nên cả ngôn ngữ Á Đông và sự dữ dội của đam mê Tây phương. “Xuân về”, đã được thể hiện trên đài phát thanh qua tiếng hát tuyệt vời của cô Ái Liên, nằm trong số những khúc ca đẹp đẽ này” (Đinh Gia Trinh - “Bàn về âm nhạc”, Le Monome Octobre - Novembre 1939).

anh-7hjjh.jpg

Tiếp bước truyền thống khai bút và đan cài gửi gắm những suy tư về trời đất lúc vạn vật thay áo mới, xuân trở thành một đề tài gợi những cách diễn tả về sự biến đổi của thời gian, song song với sự thịnh hành của chủ đề “tuổi trẻ - lòng yêu - ánh sáng” vốn có liên quan đến các trào lưu xã hội của Tự lực văn đoàn. Có khi là những bài hát rộn ràng của hoạt động tập thể như “Bài ca của thiếu nữ Việt Nam” (Lưu Hữu Phước, lời Mai Lưu, 1943) hay “Xuân và tuổi trẻ” (La Hối, lời Thế Lữ, 1944-1945), cũng có lúc là một suy nghiệm về một chốn vĩnh cửu của tâm hồn và lạc thú như “Chùa Hương” (Hoàng Quý, 1939), “Màu thời gian” (Nguyễn Xuân Khoát, thơ Đoàn Phú Tứ, 1940), “Thiên Thai” (Văn Cao, 1941).

Vẻ đẹp thiên nhiên cũng là đối tượng của những bài ca, tiếp bước truyền thống ngâm vịnh “phong hoa tuyết nguyệt” của thơ xưa: “Bướm hoa” (Nguyễn Văn Thương, lời Kim Minh, 1942), “Nhắn chim” (Hoàng Phú, 1943)… Cảm thức về sự tuần hoàn của trời đất là sự gặp gỡ ý niệm siêu hình và chủ nghĩa lãng mạn phương Tây với những biểu tượng của sự hữu hạn của kiếp phù sinh như chim, hoa, bướm tạo cho những bài hát dù tân thời do các chàng trai đôi mươi viết ra nhưng lại chững chạc, từng trải.

Nhưng có lẽ để lại cảm xúc đậm nét về mùa xuân nhất là những bài hát gắn với các mối tình, tựa như những bài du ký về tình yêu trên đường lưu lạc của nhiều nghệ sĩ trẻ tuổi: “Bông hoa rừng” (Lê Thương, thơ Thế Lữ, 1940), “Cô láng giềng” (Hoàng Quý, 1942), “Cô lái đò” (Nguyễn Đình Phúc, thơ Nguyễn Bính, 1942), “Cô hái mơ” (Phạm Duy, thơ Nguyễn Bính, 1942), “Bến xuân” (Văn Cao & Phạm Duy, 1943), “Mơ hoa” (Hoàng Giác, 1944 - 1945). Những mối tình đặt trong khung cảnh mùa xuân, được thăng hoa thành những giấc mơ về hạnh phúc, về tìm kiếm kẻ tri âm trong cõi đời vốn dĩ bất toàn. Hơn nữa, các bài hát tạo ra một trường thẩm mỹ về vẻ đẹp con người, nhất là khuôn mẫu các nàng thơ: “Một nàng sơn nữ hững hờ trong mây, tóc cô trong gió lẳng lơ, trong nắng vàng rỡn cặp má hồng tươi. Mắt như nước lặng in trời, cánh đào thắm nét miệng cười như mơ” (Bông hoa rừng), “Tôi mơ trời xuân đôi môi thắm, đôi mắt nhung đen màu hạt huyền, làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng, xao xuyến nỗi niềm yêu” (Cô láng giềng)...

Các nhạc sĩ trẻ đất Hà thành chín thập niên trước khởi sự viết những bài hát xuân đầu tiên có lẽ để thỏa niềm đam mê sáng tạo và khao khát tìm phương thức biểu đạt nội tâm trước sắc xuân. Xuân là cái cớ nhưng cũng là một đối tượng truyền thống cho ngôn từ và giai điệu diễn tả. Bởi thế các bài ca tựa như những giãi bày chân thật và e ấp, chưa có dấu vết của một dụng công thị trường hay thỏa mãn một đám đông.

Những bài hát xuân này được phổ biến sau Cách mạng tháng Tám nhờ sự lên ngôi của ý thức dân tộc và sự lan tỏa của phương tiện tân nhạc như hình thức truyền thông văn hóa hàng đầu, đã tạo ra một sự định hình về thẩm mỹ nhạc xuân cho đời sống âm nhạc Việt Nam. Mảnh đất Hà Nội, sân khấu bắt đầu cho nhiều bài hát xuân, cho dù qua những biến cố thời cuộc, vẫn luôn cất lên những điệu xuân tình. Trong tiết trời xuân lạnh giá, những điệu ca lời hát mùa xuân thời kỳ ban đầu tân nhạc như gợi lại một vẻ thanh sạch của tâm hồn, khi những lãng đãng của ca từ hoa mỹ trên nền valse lả lướt hay phức điệu ngũ cung nhấn nhá bồi đắp cảm xúc về một thuở tình tự tươi non./.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Di sản văn hóa Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân TP Huế
    Nhân kỷ niệm 45 năm thành lập, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thành phố Huế tổ chức Hội thảo “Di sản văn hóa Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân Thành phố Huế”.
  • Công nhận 12 cây cổ thụ tại Bắc Ninh là cây di sản Việt Nam
    Sự kiện công nhận quần thể 11 cây duối và 1 cây gòn có tuổi đời từ 200-500 năm là Cây Di sản Việt Nam không chỉ ghi nhận giá trị lịch sử, văn hóa, môi trường mà còn là trách nhiệm của chính quyền và nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị quý báu này.
  • Cỗ tam sinh làng Đông Trạch
    Con sông Hồng trước đây chảy qua đất làng Khuyến Lương, phường Trần Phú, quận Hoàng Mai (nay thuộc xã Nam Phù, TP. Hà Nội) xuống đến đầu làng Đông Trạch, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Khuyến Lương, TP. Hà Nội) thì phình to như một quả bóng.
  • Nền tảng vững chắc để di sản văn hóa dân tộc trường tồn
    Hơn 4.000 năm lịch sử, Việt Nam có kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú và đa dạng. Để di sản văn hóa của dân tộc trường tồn, phát huy các giá trị trong đời sống đương đại, trong mọi thời kỳ và nhất là những năm gần đây, chúng ta đã có một hệ thống văn bản các chính sách, pháp luật về di sản văn hóa ngày càng hoàn thiện hơn.
  • Chảy mãi mạch nguồn gìn giữ, phát triển di sản văn hóa Việt Nam
    Suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng, quan tâm và xác định di sản văn hóa là bản sắc của văn hóa dân tộc, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, là một nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước.
  • Giao lưu, trình diễn nghi lễ và trò chơi kéo co tại đền Trấn Vũ
    Trong khuôn khổ Festival Thăng Long - Hà Nội 2025, sáng 16/11, tại đền Trấn Vũ (phường Long Biên, thành phố Hà Nội) đã diễn ra chương trình giao lưu, trình diễn nghi lễ và trò chơi kéo co. Chương trình do Sở Văn hóa và Thể thao TP Hà Nội phối hợp với UBND phường Long Biên và Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tổ chức, nhân dịp kỷ niệm 10 năm nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • “Tấu khúc lưỡng cực”: Đêm nhạc giao thoa văn hóa Việt - Đức
    Trong hai ngày 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm sẽ diễn ra chương trình hòa nhạc “Tấu khúc lưỡng cực - A Rhapsody of Two Worlds” do Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức. Sự kiện mang ý nghĩa đặc biệt nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức.
  • Chuyển đổi số - Cơ hội và thách thức với văn học nghệ thuật Thủ đô
    Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu của mọi lĩnh vực đời sống, văn học nghệ thuật Thủ đô cũng đứng trước những vận hội lớn cùng không ít thách thức. Tọa đàm “Văn học nghệ thuật Thủ đô trong ứng dụng chuyển đổi số hiện nay” do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức sáng 5/12 đã góp phần nhận diện những chuyển động mạnh mẽ của đời sống văn học nghệ thuật trong môi trường số, đồng thời gợi mở những định hướng phát triển phù hợp với thực tiễn.
  • Liên hoan các câu lạc bộ chèo không chuyên tỉnh Bắc Ninh
    Liên hoan năm nay quy tụ hơn 500 nghệ nhân, diễn viên và nhạc công không chuyên đến từ 12 câu lạc bộ chèo thuộc các xã, phường trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
  • Khai mạc 'Ngày hội Việt Nam hạnh phúc 2025'
    Năm 2025, lần đầu tiên "Ngày hội Việt Nam hạnh phúc - Vietnam Happy Fest" được tổ chức dưới hình thức một chuỗi hoạt động trải dài liên tục qua đó có thể kể một câu chuyện trọn vẹn hơn về “hạnh phúc của người Việt” thông qua nhiều không gian, nhiều hoạt động trải nghiệm và tương tác khác nhau.
Đừng bỏ lỡ
Chín thập niên bản đàn xuân Hà thành
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO