Chế Lan Viên: Anh ấy Điêu tàn, anh ấy Phù sa

Vũ Quần Phương| 12/10/2019 09:30

Tên thật: Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23/10/1920, quê Quảng Trị. Làm thơ từ năm 12, 13 tuổi ở huyện lị An Nhơn, kí những bút danh mang tên đất của Quảng Trị: Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Ông nói: Khi ấy chưa ý thức đó là thơ. Xuống Bình Định, gặp Yến Lan, mới hiểu ý nghĩa của việc làm thơ, kí bút danh Lan Viên (vườn Lan, không biết có do tên Yến Lan gợi nên không). Xuống Quy Nhơn, thành người làm thơ thực sự trước bút danh Lan Viên có thêm họ Chế: Chế Lan Viên.

Chế Lan Viên: Anh ấy Điêu tàn, anh ấy Phù sa

Tên thật: Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23/10/1920, quê Quảng Trị. Làm thơ từ năm 12, 13 tuổi ở huyện lị An Nhơn, kí những bút danh mang tên đất của Quảng Trị: Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Ông nói: Khi ấy chưa ý thức đó là thơ. Xuống Bình Định, gặp Yến Lan, mới hiểu ý nghĩa của việc làm thơ, kí bút danh Lan Viên (vườn Lan, không biết có do tên Yến Lan gợi nên không). Xuống Quy Nhơn, thành người làm thơ thực sự trước bút danh Lan Viên có thêm họ Chế: Chế Lan Viên.

Năm 1937, xuất bản tập thơ đầu Điêu tàn.

Năm 1939, ra Hà Nội học, vào Sài Gòn làm báo, về Thanh Hóa, rồi vào Huế dạy học. Năm 1942, in tập văn xuôi Vàng sao, viết truyện ngắn, tập Gai lửa, tiếp tục làm thơ, tập Thơ không tên. Tham gia Cách mạng tháng Tám tại Quy Nhơn. Sau đó ra Huế làm báo Quyết thắng của Việt Minh Trung Bộ. Vào Đảng năm 1949.

Thời đất nước chia cắt, sống ở Hà Nội, tham gia ban lãnh đạo Hội Nhà văn, đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII. Đất nước thống nhất, về sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, trong 8 năm cuối của đời mình, theo lời vợ ông, nhà văn Vũ Thị Thường, ông viết một khối lượng thơ nhiều hơn cả đời thơ trước đó. Bà Vũ Thị Thường đã soạn được 4 tập di cảo, khoảng 700 bài, bản thảo vẫn đang còn. 

Điêu tàn, 36 bài và sau Điêu tàn, 34 bài nữa, coi chung là những thi phẩm trước Cách mạng của ông. Chủ đề Điêu tàn được nhiều người xác định là tiếng than khóc cho đất nước Chiêm Thành đã tiêu vong. Đúng thế, nhưng chưa đủ. Bởi ngay trong đề tài Chàm này, mà đề tài Chàm mới chỉ chiếm một phần Điêu tàn, thì cảm hứng thơ Chế Lan Viên đâu chỉ khuôn trong nỗi buồn vong quốc của dân Chàm, đâu chỉ là nỗi nuối tiếc khung cảnh huy hoàng trong dĩ vãng. Ngoài “Những cô thôn vàng nhuộm bóng chiều tươi” với những “Chiếc thuyền nằm mơ trên sông lặng/ Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành” và “Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp/ Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui”… Còn gì nữa chứ. Còn, ấy là:

Sọ dừa ơi hãy nghe ta truyền phán
Hãy ngả nghiêng lăn lộn, hãy kêu gào
Hãy rít lên những điệu xương vỡ rạn
Hãy buông ra những tiếng máu 
sôi trào 
(Xương vỡ máu trào)

Nhà thơ trẻ lãng mạn Chế Lan Viên muốn gì trong cõi yêu tinh kinh dị u uất ấy?
Hãy về đây, về bên ta mi hỡi
Đem cho ta những phút rợn kinh hồn
Những phút mộng điên cuồng, 
mơ dữ dội.
(Xương khô)

Ông muốn tìm giải thoát trong cõi yêu ma. Chán sắc màu thật của trần gian nên thích “hồn phách say sưa trong giả dối (…)/ Cho lăn lóc hồn mê trong ảo huyễn”. Tự tạo ra ảo huyễn. Nước Chàm xưa chỉ là một (trong nhiều) ảo huyễn được gợi nên từ hình dáng đổ nát của những tháp Chàm ngày đêm in bóng trên nền trời Bình Định, trên không gian tuổi thơ của tác giả. Đây là chỗ giao thoa của hồn thơ Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử. Mạch cảm xúc này cha ông ta ít khi khai thác, nó không có trong truyền thống. Phương Tây thì nhiều, rõ và gần nhất là Bôđơle. Niềm kinh dị (chữ của Hoài Thanh) do Chế Lan Viên gây nên xuất phát từ đây. Nhưng, theo tôi, sức thu hút của Điêu tàn không chỉ ở kinh dị với ma khóc quỷ hờn, đầu lâu la hét… trong cõi âm mờ tối, mà nhiều hơn lại ở sự mê đắm. Mê đắm vẻ đẹp rất nhiều ánh sáng kì ảo của trần gian thanh thiên bạch nhật. Thiên nhiên tươi sáng, son trẻ, nghịch ngợm, đa tình.
Cảnh xuân:

Hàng dừa cao say sưa ôm bóng ngủ
Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô
Xoan vươn cành khều mặt trời rực rỡ
Bên bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đu
(Xuân về)

Cảnh thu:

Mặt trời nở trong ô cây thếp bạc
Trên ngàn xanh nhí nhảnh 
ánh vàng lay
Muôn chim hót cùng ngày thơ ca hát
Lũ bướm vàng quên lạnh 
thẩn thơ bay
(Thu về)

Đây cũng là khí quyển quen thuộc phong trào Thơ mới. Trong tâm lí tiếp nhận cảnh sắc ấy có lòng yêu đời say đắm, say đắm mà thành lãng mạn, mà tạo thần tiên cho cõi trần. Đây lại là chỗ giao thoa của Chế Lan Viên với Xuân Diệu và cả với Thế Lữ (Thế Lữ tạo thần tiên hơi quá tay nên có hao hụt thi vị trần tục). Hồn người thơ ở đây trong trẻo quá, cách xa lắm với khí đêm u uất cõi ma trong các bài thơ khóc dân Hời.

Giai đoạn sau Điêu tàn, bút pháp ảo trần gian trong trẻo này được vận dụng nhiều. Bài thơ Trưa đơn giản là thành công tiêu biểu cho khuynh hướng này. Những không gian trưa: trưa quanh vườn, trưa quanh gốc, trưa lên trời, trưa lạc vào lăng tẩm, trưa bước xuống những sân ga… các trưa điển hình của hiện thực nhưng được thu nhận bằng cái nhìn ảo. Thực ảo lẫn vào nhau, tạo một cảm xúc chập chờn nửa vào cõi lạ nửa trong cõi đời. Câu thơ mê đi làm tỉnh thức rất nhiều cảm giác, làm ý thức hóa mơ hồ, tài tình lắm:

Trưa, theo tàu bước xuống 
những sân ga
Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa
Đây trưa hiện hình 
trong căn trường nhỏ
Đưa tay thoa những hàng kính vỡ.

Đây là một chặng phát triển cảm xúc Chế Lan Viên sau giai đoạn kinh dị. Đôi lúc ông tạt qua bút pháp ấn tượng, tạo nét siêu thực chừng mực, đủ sức gợi. Ý nghĩa câu thơ lùi lại phía sau nhường cho cảm giác hình thành:

Thâm-khuê-ý-thức chong đèn lạnh
Mặt-nguyệt-tâm-tư tròn vẹn gương
Chiếc én thành son chưa đẫy cánh
Nét đau xanh liễu chửa buông tường.

Chế Lan Viên không phát triển bút pháp này. Hướng ấy là sở trường của Nguyễn Xuân Sanh, nhưng bài thơ Lại thấy thời gian này (viết khoảng 1937 - 1946) là một bài thành công, cho thấy biên độ cảm hứng của Chế Lan Viên khá rộng.

Tập thơ bao trùm giai đoạn sáng tác chín năm kháng chiến Gửi các anh là một tập thơ mỏng, ướm thử nhiều thủ pháp, cốt sao tải được hiện thực cuộc sống lẫn ý tưởng tác giả khi ấy. Khó có thể coi bài nào là hoàn chỉnh, nhưng lại hé cho thấy những khuynh hướng mới, sau này sẽ phát triển rõ trong Ánh sáng và phù sa. Điều đó chứng tỏ hướng tìm của Chế Lan Viên những năm kháng chiến chống Pháp là có ý nghĩa. Chế Lan Viên đã bộc lộ khuynh hướng nâng cao phẩm chất trí tuệ cho thơ. Khuynh hướng này về sau thành một đặc sắc của Chế Lan Viên.

Càng về sau hứng thú khi đọc thơ Chế Lan Viên càng thiên về hứng thú trí tuệ. Và từ trí tuệ mà nảy sinh tình cảm ở một chiều sâu mới.

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn
(Tiếng hát con tàu)

Bài thơ dựng lại con đường Bác Hồ tìm đường cứu nước mang cái tên dài Người đi tìm hình của nước. Bản thân cái tên ấy là một câu thơ hàm súc, hình tượng thơ nằm trong hình ảnh đi tìm hình của nước, nghĩa là tìm dạng thức tồn tại cho đất nước (Độc lập hay Liên hiệp? Cộng hòa hay Quân chủ?...). Cách nói ấy mang tính trí tuệ và trở thành tứ của bài thơ. Bài thơ kết thúc khi cái hình nước hiện ra trong hòn đất Pác Bó được Bác Hồ nâng trên tay ngày trở về:

Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng 
hình đất nước phôi thai.

Phẩm chất trữ tình mới và cả bút pháp mới của Ánh sáng và Phù sa như một cú hích cho cả nền thơ miền Bắc hồi ấy. Nhiều cây bút trẻ bị phong cách Chế Lan Viên thu hút. Từ đó đến khi mất, Chế Lan Viên đều đặn cho xuất bản Hoa ngày thường, chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Hoa trước lăng Người (1976), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984). Các tập thơ vận động trên cùng một trục thi pháp Chế Lan Viên, nhưng mỗi tập là một phát triển dung lượng chất chứa hiện thực: chuyện đánh giặc, chuyện đời thường.

Thơ đánh giặc của Chế Lan Viên là thơ bình luận, tranh luận về phẩm chất anh hùng của cuộc chiến đấu, về lí tưởng cao cả và đức hi sinh to lớn của dân ta. Có thể nói, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ Chế Lan Viên đã thành một chỗ dựa tâm hồn cho người đánh giặc. Còn nhớ những ngày đầu miền Bắc chống không lực Hoa Kì, ngay từ 5/8/1964, tin chiến sự như vang cùng thơ Chế Lan Viên, làm phấn chấn và thôi thúc lòng người đánh giặc. Tên sông tên núi gọi lên khi ấy thấm thía, xao xuyến biết bao nhiêu:

Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ
Mây nước, cửa nhà, văn học, 
ngữ ngôn
Một đảo vắng Hòn Ngư còn chớp bể
Một rặng núi Kì Sơn từng lắm lúc 
mưa nguồn
(Sao chiến thắng)

Tình cảm nhà thơ cộng hưởng với tình cảm toàn dân yêu nước. Suốt mười năm từ 1965 đến 1975, Chế Lan Viên đồng hành cảm xúc mình với cuộc chiến đấu thống nhất đất nước. Thơ ông vào trận, khi hào sảng âm vang như văn Hịch tướng sĩ thời Trần: Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng (1965), Con mắt Bạch Đằng, Con mắt Đống Đa (1966), Suy nghĩ (1966)…; khi bừng bừng căm giận, sôi sục anh hùng ca khi lại mảnh mai thăm thẳm như cái nỗi nhớ mơ hồ một địa danh nhỏ nhoi bên kia vĩ tuyến, thành phố Sông Cầu.

Ngày toàn thắng 30/4/1975, Chế Lan Viên công bố bài thơ dài Ngày vĩ đại, viết 3/5/1975, in hơn một trang nhật báo khổ to. Giọng thơ ào ạt như thuở nào Đại cáo bình Ngô trúc chẻ ngói tan, thần tốc thắng giặc, những thương nhớ đau đớn âm thầm nén lại bấy nhiêu năm cắt chia, bom đạn như được ào ra trang giấy cười, khóc, xót thương, hả hê, hào hứng…Vậy mà chưa đã, “Núi sông lành chỗ cắt vẫn còn đau”, hai tuần sau đó, vẫn thể thơ ấy, một bài dài gần gấp đôi xuất hiện, sâu lắng thâm trầm hơn, cảm nhận trở lại những gì dân ta, cả phía bên này lẫn phía bên kia, đã cắn răng chịu đựng “Đau sông nước muôn phương thân vạc thân cò”. Dung lượng bài thơ đủ để cho tác giả bình luận ở mọi lĩnh vực. Chỗ tình cảm đằm thắm, có chỗ lí sự, tranh luận, cái thế tranh luận của người chiến thắng, bút pháp tung hứng nhưng cũng rất dễ tự say lời.

Thơ đời thường, trong đó có thơ tình yêu, ở Chế Lan Viên rất phong phú. Cũng để dễ nói thì chia ra như thế, thực tế, đánh giặc đã là chuyện đời thường rồi, đề tài nọ vốn lồng vào đề tài kia. Xếp hàng mua gạo, mua vải hẳn là chuyện thường ngày, nhưng cũng là chuyện đánh giặc, là tư thế đánh giặc:

Một triệu quân giặc rối bời 
như canh hẹ
Ở đây ta xếp hàng.
(Xếp hàng)

Chế Lan Viên nắm bắt rất nhanh những chủ đề thơ của các sự kiện, các hiện tượng, thậm chí một nét tâm lí thoáng qua. Bài thơ nào cũng như một chiêm nghiệm xử thế, sức khái quát sâu mà cảm động.

Có bài, kiểu tư duy của Chế làm hiện thực bật ra tình huống thơ. Tiếng chim ở Vĩnh Linh sau ngày Mỹ ngừng bom, ngoại cảnh chỉ có thế, nhưng nội tâm nhà thơ đi qua gian lao của chiến tranh, đã tạo nên tình thế xúc động thơ:
Bốn năm lửa đạn chim bay hết
Nay tiếng bom im cánh biếc về
Tiếng hót đầu tiên, ơ lạ lắm!
Cả làng rưng lệ đứng im nghe
(Chim biếc Vĩnh Linh)

Câu cuối là của lòng nhà thơ tạo thêm cho hiện thực. Ông kĩ càng câu chữ. Gần như bài nào cũng có yếu tố sáng tạo. Người ta yêu tứ thơ của ông, và yêu cả ngôn ngữ, đặc biệt âm điệu câu thơ. Tiếng chim cu gù sau ngày đình chiến cũng trùng xương cốt chủ đề với chim biếc Vĩnh Linh, nhưng phập phồng da thịt cuộc sống xa, gần, xưa, nay. Âm điệu ngắn dài đứt nối vắt qua các câu thơ, như liền lại như đứt, mô tả tiếng chim cu gáy những trưa quê rất khêu gợi:

Hồn đất nước bâng khuâng
 theo tiếng chim dân dã
Như chửa nghe bao giờ. Mà như đã
Nghe rồi. Tự đâu thơi xa xửa xa xưa.
(Vòng cườm trên cổ chim cu)

Hai vế đề tài hoa ngày thường và chim báo bão trong thơ kháng chiến chống Mỹ và mươi năm sau đó của Chế Lan Viên luôn luôn phát triển song hành. Biên độ cảm xúc rộng, bút pháp biến hóa.

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy.

Hình ảnh ấy, trước hết, hợp với chính Chế Lan Viên. Ông là người chủ lực trong cả nền thơ, tạo nên mạch trữ tình lịch sử, trữ tình của những sự kiên lớn. Cảm xúc choán những biên độ rất rộng từ “Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc” đến “Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”. Một đầu là lịch sử, đầu kia đã là thân phận con người.

Đọc thơ ông, thời kháng chiến chống Mỹ, ta dễ say trong chất men thời cuộc, hồn vía như bay lên cùng quán tính của sự kiện vần xoay. Nhưng khi thời cuộc qua đi, sự kiện chấm dứt, lòng người lắng lại. Thơ cộng hưởng được gì với hồn người khi ấy. Kinh nghiệm một nhà thơ lớn nhắc ông tìm lại ở lòng mình. Hôm đọc trên báo bài Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh (1988), qua tâm sự ông vua, đã thoáng thấy:

Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa
Xa tiếng gió xạc xào?
Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ?
Chỉ nghe danh vọng ầm ào? 
Vinh quang xí xố.

Câu cuối cùng ở bài thơ ấy, khi ông vua Đinh kêu lên: “Hồn ta ở đâu?”,  ta nghe thấy khát khao của nhà thơ Chế.

Trong tập Hoa trên đá (1984), Chế Lan Viên đã quay lại với giọng nhỏ trữ tình riêng tư, như hồi nào ông viết Ánh sáng và Phù sa. Tập trước, 1960, đánh dấu sự chuyển hướng thành công, từ chân trời một người đến chân trời mọi người, tập sau, một phần tư thế kỉ đi qua, là sự kết tinh một đời thơ, thu ngoại giới vào hồn mình, thành hồn mình. Hoa trên đá là một mốc chuyển đáng lưu ý của Chế Lan Viên. Chủ thể cá nhân, nông nỗi cá nhân bộc lộ khá nhiều. Tình thế buồn nhưng người không cam phận:

Chả bề nào khuây được bể dâu
Trừ ra bể sâu hơn bể nữa
Bể gây những cuồng phong bão tố
Cũng để quên mình đã lỡ thẳm sâu.
(Bể)

Bi kịch nhưng cũng là cái giá phải trả cho sự biết, nhất là để biết chính mình. Rất nhiều bài thơ như tự vấn trở lại những cái ngỡ như đã biết, thậm chí, đã giảng cho người khác: lẽ nào, chẳng lẽ, ngỡ như… Một nhà thơ nổi tiếng là thông minh, uyên bác và hùng biện như sông Hồng, sông Mã, “gầm reo trong đạn lửa”, lúc cao niên lại muốn im lặng và lắng nghe tiếng thì thầm của con sông Thương nước mắt “sông nhớ thương ai mà nước chảy đôi dòng”. Thơ cảm động ở nỗi sâu nặng tình đời. Tâm hồn nhà thơ như yếu đuối hơn, ông nài nỉ với cuộc đời:

Nghe hết câu chèo đã được không
Vội gì trăm núi với ngàn sông
Lặng đi một phút cho câu hát
Cùng với màu mây thấm tận lòng.
(Nghe hết câu chèo)

Cũng đề tài chiến tranh, sau rất nhiều bài thơ tung hoành như cáo, như hịch, như anh hùng ca giúp người đứng vững giữa bom đạn mà đánh giặc. Nay đất nước yên hàn, lòng ông lắng lại, cân lại những hi sinh “Những giọt lệ khô rồi bây giờ lại nhỏ”. Ông sống lại nỗi lòng người vợ đợi chồng: “Đêm đối diện với ngọn đèn hạt đỗ”. Ông xót xa trong đêm hò giấu nỗi đau từ tạ:

Anh cúi mặt bên đèn khêu lại bấc
Nước mắt nhỏ sau câu hò, 
em lấy tay che.
(Đêm hò từ tạ)

Ông không giấu vị đắng của lòng mình khi trở về quê cũ An Nhơn sau chiến tranh, sau thời chia cắt “Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người”. Có câu thơ thật thà như câu nói mà trong hồn vía nó có chiêm nghiệm của cả đời người:

Ở đâu đong hạnh phúc chén đầy, 
đây chỉ chén vơi
Một hạt tấm con no suốt một đời.
(Kỉ niệm có gì)

Bao nhiêu nỗi buồn của con người thời thơ tránh né, tránh né để lòng yên mà đánh giặc, Chế Lan Viên tự tin mà nhặt lại.
Sau khi ông tạ thế, liên tiếp 3 tập Di cảo được xuất bản ( năm 1992, 1993, 1996). Bạn đọc sửng sốt và vui mừng: một Chế Lan Viên rất khác, thực hơn, bạo hơn, gọn hơn, chắc hơn; do vậy, mới hơn, trẻ hơn và rất lí thú là không hề cắt rời với thi pháp độc đáo Chế Lan Viên. Di cảo là những bài lúc sống, ông chưa đưa in. Chưa đưa in có lẽ vì ngần ngại năng lực tiếp thu của xã hội lúc đó. Ông quan niệm lại nhiều thứ. Chế Lan Viên viết như bổ sung, như đính chính những điều đã viết. Nhiều cách nghĩ ta thấy lạ. Lạ với ông. Lạ cả với nền thơ. Ông như tách khỏi mình mà khảo sát chính mình, ở cái chỗ người ta tưởng ông đắc ý lại là chỗ ông đã xót thương:

Khi tôi cưỡi trên mây
Thì máu người rên trên đất
Mẹ hỏi tôi
Con lên cao mà làm chi
Mẹ ở dưới này cơ cực
Về đi! 
(Tìm đường)

Có người nghĩ Di cảo là thơ sám hối của Chế Lan Viên. Tôi không thấy thế. Di cảo chỉ là sự bổ sung. Chỉ nói nốt những điều trước kia ông dừng lại. Dừng lại không nói, chứ không phải không có nó trong lòng. Di cảo đi xa hơn nhưng vẫn trong hướng tìm của nhà thơ.

Thi pháp Di cảo hiện đại hơn chính vì nó trình bày chất thơ để mộc từ trong lõi. Chỉ riêng Di cảo thôi đủ tạo sự nghiệp một nhà thơ lớn. 
(0) Bình luận
  • Tiếng hát trong vỏ ốc
    Đêm. Run rủi thế nào hai người phụ nữ ấy lại gặp nhau ngay trên bãi cát. Biển về khuya vắng lặng. Những cặp tình nhân thậm chí cũng đã rời đi vì gió trời bắt đầu trở lạnh. Cô đang giẫm lên dấu chân xiêu vẹo của người phụ nữ đi trước mình. Người đàn bà ấy chậm rãi từng bước, dáng đi có phần nghiêng ngả như một kẻ say.
  • Quà trung thu của ba
    Khoa đang rất vui vì lần đầu tiên được cùng ba tự tay làm đồ chơi Trung thu. Những năm trước, cậu cũng có đèn lồng, đầu lân nhưng đều là quà mẹ mua sẵn vì ba phải đi công tác. Năm nay, ba được nghỉ phép, liền rủ Khoa cùng làm đầu lân bằng tre và giấy báo cũ.
  • Đôi mắt xuyên bão
    Buổi sáng đầu thu, gió vương chút lạnh và lá trên hàng sấu trước cửa văn phòng Hương bắt đầu úa vàng. Hương pha một ấm trà sen. Thói quen ấy cô đã giữ suốt bao năm cho dù cô chẳng nghiện.
  • Chuyện người đàn bà
    Chín năm về trước, vào khoảng chiều tối, anh phó công tố viên Py-ốt-tơ-rơ Xia-rơ-dếch và tôi ngồi xe ngựa băng qua đồng cỏ đang mùa phơi để đưa mấy lá thư từ trạm về.
  • Sau bão
    Tiếng ấm đun sôi ùng ục. Chị toan mở nắp, chợt nghe có tiếng bước chân. Lại thế. Bà Thịnh giật lấy quả trứng khỏi tay chị. Bà miết ngón trỏ lên vỏ trứng nhẵn bóng như muốn truyền vào đó một thứ nôn nóng khó tả, rồi đập vỡ bằng cái bực dọc đang hừng hực dâng lên. Chẳng ai được ăn quá hai quả trong tuần. “Mì còn dư, lại muốn trương ra rồi húp?” - bà liếc sắc lẹm, ánh nhìn như lưỡi móc câu thọc thẳng vào miệng cá.
  • Tiếng “tút tút” cuối cùng
    Xóm Tìm nằm nép mình bên dòng sông Trà Lý, nơi bầu trời dường như sà xuống thấp hơn, và mùi bùn non cứ thế quyện vào hơi thở, vào máu thịt của những người dân lam lũ. Ở cái xóm nhỏ ven đê này, mỗi buổi sáng, vào lúc sáu giờ, một chuỗi âm thanh quen thuộc “tút tút…” lại vang lên từ chiếc loa truyền thanh của xã đặt trên đỉnh cột làm từ một cây xoan già.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • "Hà Nội 1987" - Ký ức bằng hình ảnh về một Hà Nội một thời
    Sáng 11/11, tại Chung Workspace (344 Phố Huế, Hà Nội), Viện Pháp tại Việt Nam phối hợp với Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam và Nhà xuất bản Thông tấn tổ chức tọa đàm ra mắt sách ảnh “Hà Nội 1987” của nhiếp ảnh gia, họa sĩ người Pháp Jean-Charles Sarrazin.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Củng cố nền tảng tư tưởng, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng
    Sáng 10/11/2025, tại Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia “Xây dựng Quy định về công tác chính trị, tư tưởng”. Đây là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần cụ thể hóa chủ trương của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy định mới về công tác chính trị, tư tưởng của Đảng - một lĩnh vực then chốt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay.
  • [Podcast] Nem rán Hà Nội - Hương vị làm nên bản sắc ẩm thực đất Kinh kỳ
    Giữa muôn vàn món ngon, nem rán Hà Nội vẫn luôn giữ một vị trí đặc biệt – vừa quen thuộc, giản dị mà tinh tế. Từ những buổi cỗ Tết sum vầy đến các mâm cơm thường nhật, từ những bữa tiệc truyền thống đến bàn ăn của du khách phương xa, nem rán vẫn là biểu tượng cho sự khéo léo, tinh tế và sáng tạo của người Hà Nội trong nghệ thuật ẩm thực.
  • Chi bộ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức lễ trao quyết định công nhận đảng viên chính thức và trao thẻ đảng viên
    Chiều 11/11, tại buổi sinh hoạt thường kỳ tháng 11/2025, Chi bộ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội đã tổ chức lễ trao Quyết định công nhận đảng viên chính chức cho đảng viên dự bị và trao thẻ đảng viên mới cho 14 đồng chí Đảng viên trong Chi bộ.
Đừng bỏ lỡ
  • Xã Thượng Phúc đẩy mạnh kiểm tra hoạt động dịch vụ văn hóa, du lịch
    Nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hóa, du lịch, thể thao, thông tin và tuyên truyền trên địa bàn, UBND xã Thượng Phúc (TP. Hà Nội) sẽ đẩy mạnh công tác kiểm tra về các nội dung này trong quý IV năm 2025.
  • “Giải cứu” di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia tháp Chăm bị ngâm nước
    Sau mưa lớn kéo dài ở TP Huế đã khiến di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia tháp Chăm Phú Diên bị ngâm sâu trong nước và đơn vị quản lý đang sử dụng máy bơm nước ra ngoài.
  • Cơ hội khám phá “Những phát hiện khảo cổ từ Vườn Chuối” tại Bảo tàng Hà Nội
    Ngày 9/11/2025, tại Bảo tàng Hà Nội (đường Phạm Hùng, phường Từ Liêm), Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội đã tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Những khám phá khảo cổ từ Vườn Chuối” và công bố kết quả nghiên cứu khoa học di tích khảo cổ học Vườn Chuối năm 2025.
  • "Mỗi người dân Hà Nội là một kênh gìn giữ - kết nối di sản"
    Với Festival Thăng Long - Hà Nội lần đầu tiên tổ chức, Ban tổ chức mong muốn: Mỗi người dân sẽ tự mang trong mình hồn cốt của lịch sử, văn hóa Thủ đô ngàn năm văn hiến, mỗi người dân là một “di sản” hiện hữu trong cuộc sống hằng ngày, vừa là quá khứ, vừa là hiện tại và vừa kết nối tương lai. Phóng viên đã cuộc trò chuyện với bà Bạch Liên Hương, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội xung quanh Festival Thăng Long - Hà Nội năm 2025.
  • Phát động cuộc thi “Kính Vạn Hoa mở ra thế giới…”
    Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ra mắt bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh - một trong những tác phẩm kinh điển của văn học thiếu nhi Việt Nam, Nhà xuất bản Kim Đồng vừa phát động cuộc thi Viết & Vlog “Kính Vạn Hoa mở ra thế giới…”.
  • "Sông Hồng gọi, đại ngàn reo" – Âm vang cồng chiêng giữa lòng Thăng Long - Hà Nội
    Tối 6/11, đêm nhạc “Sông Hồng gọi, đại ngàn reo” nằm trong khuôn khổ Festival Thăng Long - Hà Nội 2025, đã diễn ra tại hồ Văn (Văn Miếu - Quốc Tử Giám).
  • Câu lạc bộ Life's So Drama: Nơi đam mê kịch nghệ được chắp cánh
    Life’s So Drama là Câu lạc bộ (CLB) Kịch nghệ đầu tiên và duy nhất được thành lập và duy trì bởi các học sinh và cựu học sinh Trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam (Hà Nội). Tiền thân, CLB được thành lập và duy trì bởi các học sinh và cựu học sinh Trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam, nhưng vài năm trở lại đây, CLB đã mở rộng phạm vi hoạt động ra các trường THPT trên toàn địa bàn thành phố Hà Nội.
  • Nhà hát Kịch Việt Nam giới thiệu chuỗi chương trình nghệ thuật đặc biệt mang tên "Âm vang người lính"
    Nhà hát Kịch Việt Nam giới thiệu chuỗi chương trình nghệ thuật đặc biệt mang tên "Âm vang người lính" với sự trở lại của ba vở kịch từng “gây sốt” trên sân khấu: Đêm trắng, Biệt đội Báo Đen và Bão tố Trường Sơn. Các vở diễn sẽ được tổ chức tại Nhà hát Kịch Việt Nam (số 1 Tràng Tiền, phường Cửa Nam, Hà Nội).
  • Nhà hát Lớn Hà Nội kể chuyện di sản 115 năm bằng ánh sáng và công nghệ
    Lần đầu tiên trong lịch sử, Nhà hát Lớn Hà Nội tạm khép lại cánh cửa biểu diễn thường nhật để trở thành chính "sân khấu của mình". Toàn bộ không gian như từ sảnh đón, cầu thang, khán phòng đến mái vòm được "đánh thức" bằng ánh sáng, hình ảnh và âm thanh, tái hiện ký ức hơn một thế kỷ của di sản kiến trúc. Dự án "115 năm Nhà hát kể chuyện – Di sản cất lời bằng ánh sáng và công nghệ" là dự án nghệ thuật đặc biệt nhân dịp kỷ niệm 115 năm ngày khánh thành Nhà hát Lớn Hà Nội, công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn lịch sử và là biểu tượng văn hóa của Thủ đô.
  • Hà Nội lan tỏa phong trào thôn, tổ dân phố văn hóa tiêu biểu
    Phát biểu khai mạc Sơ khảo Liên hoan Thôn, Tổ dân phố văn hóa tiêu biểu Thành phố Hà Nội năm 2025, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội Phạm Xuân Tài, nhấn mạnh: “Liên hoan không chỉ là dịp để biểu dương, tôn vinh những tập thể tiêu biểu trong phong trào, mà còn là một nhịp cầu nối để phong trào tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ và bền vững trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền đô thị hai cấp”.
Chế Lan Viên: Anh ấy Điêu tàn, anh ấy Phù sa
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO