Chế Lan Viên: Anh ấy Điêu tàn, anh ấy Phù sa

Vũ Quần Phương| 12/10/2019 09:30

Tên thật: Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23/10/1920, quê Quảng Trị. Làm thơ từ năm 12, 13 tuổi ở huyện lị An Nhơn, kí những bút danh mang tên đất của Quảng Trị: Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Ông nói: Khi ấy chưa ý thức đó là thơ. Xuống Bình Định, gặp Yến Lan, mới hiểu ý nghĩa của việc làm thơ, kí bút danh Lan Viên (vườn Lan, không biết có do tên Yến Lan gợi nên không). Xuống Quy Nhơn, thành người làm thơ thực sự trước bút danh Lan Viên có thêm họ Chế: Chế Lan Viên.

Chế Lan Viên: Anh ấy Điêu tàn, anh ấy Phù sa

Tên thật: Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23/10/1920, quê Quảng Trị. Làm thơ từ năm 12, 13 tuổi ở huyện lị An Nhơn, kí những bút danh mang tên đất của Quảng Trị: Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Ông nói: Khi ấy chưa ý thức đó là thơ. Xuống Bình Định, gặp Yến Lan, mới hiểu ý nghĩa của việc làm thơ, kí bút danh Lan Viên (vườn Lan, không biết có do tên Yến Lan gợi nên không). Xuống Quy Nhơn, thành người làm thơ thực sự trước bút danh Lan Viên có thêm họ Chế: Chế Lan Viên.

Năm 1937, xuất bản tập thơ đầu Điêu tàn.

Năm 1939, ra Hà Nội học, vào Sài Gòn làm báo, về Thanh Hóa, rồi vào Huế dạy học. Năm 1942, in tập văn xuôi Vàng sao, viết truyện ngắn, tập Gai lửa, tiếp tục làm thơ, tập Thơ không tên. Tham gia Cách mạng tháng Tám tại Quy Nhơn. Sau đó ra Huế làm báo Quyết thắng của Việt Minh Trung Bộ. Vào Đảng năm 1949.

Thời đất nước chia cắt, sống ở Hà Nội, tham gia ban lãnh đạo Hội Nhà văn, đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII. Đất nước thống nhất, về sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, trong 8 năm cuối của đời mình, theo lời vợ ông, nhà văn Vũ Thị Thường, ông viết một khối lượng thơ nhiều hơn cả đời thơ trước đó. Bà Vũ Thị Thường đã soạn được 4 tập di cảo, khoảng 700 bài, bản thảo vẫn đang còn. 

Điêu tàn, 36 bài và sau Điêu tàn, 34 bài nữa, coi chung là những thi phẩm trước Cách mạng của ông. Chủ đề Điêu tàn được nhiều người xác định là tiếng than khóc cho đất nước Chiêm Thành đã tiêu vong. Đúng thế, nhưng chưa đủ. Bởi ngay trong đề tài Chàm này, mà đề tài Chàm mới chỉ chiếm một phần Điêu tàn, thì cảm hứng thơ Chế Lan Viên đâu chỉ khuôn trong nỗi buồn vong quốc của dân Chàm, đâu chỉ là nỗi nuối tiếc khung cảnh huy hoàng trong dĩ vãng. Ngoài “Những cô thôn vàng nhuộm bóng chiều tươi” với những “Chiếc thuyền nằm mơ trên sông lặng/ Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành” và “Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp/ Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui”… Còn gì nữa chứ. Còn, ấy là:

Sọ dừa ơi hãy nghe ta truyền phán
Hãy ngả nghiêng lăn lộn, hãy kêu gào
Hãy rít lên những điệu xương vỡ rạn
Hãy buông ra những tiếng máu 
sôi trào 
(Xương vỡ máu trào)

Nhà thơ trẻ lãng mạn Chế Lan Viên muốn gì trong cõi yêu tinh kinh dị u uất ấy?
Hãy về đây, về bên ta mi hỡi
Đem cho ta những phút rợn kinh hồn
Những phút mộng điên cuồng, 
mơ dữ dội.
(Xương khô)

Ông muốn tìm giải thoát trong cõi yêu ma. Chán sắc màu thật của trần gian nên thích “hồn phách say sưa trong giả dối (…)/ Cho lăn lóc hồn mê trong ảo huyễn”. Tự tạo ra ảo huyễn. Nước Chàm xưa chỉ là một (trong nhiều) ảo huyễn được gợi nên từ hình dáng đổ nát của những tháp Chàm ngày đêm in bóng trên nền trời Bình Định, trên không gian tuổi thơ của tác giả. Đây là chỗ giao thoa của hồn thơ Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử. Mạch cảm xúc này cha ông ta ít khi khai thác, nó không có trong truyền thống. Phương Tây thì nhiều, rõ và gần nhất là Bôđơle. Niềm kinh dị (chữ của Hoài Thanh) do Chế Lan Viên gây nên xuất phát từ đây. Nhưng, theo tôi, sức thu hút của Điêu tàn không chỉ ở kinh dị với ma khóc quỷ hờn, đầu lâu la hét… trong cõi âm mờ tối, mà nhiều hơn lại ở sự mê đắm. Mê đắm vẻ đẹp rất nhiều ánh sáng kì ảo của trần gian thanh thiên bạch nhật. Thiên nhiên tươi sáng, son trẻ, nghịch ngợm, đa tình.
Cảnh xuân:

Hàng dừa cao say sưa ôm bóng ngủ
Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô
Xoan vươn cành khều mặt trời rực rỡ
Bên bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đu
(Xuân về)

Cảnh thu:

Mặt trời nở trong ô cây thếp bạc
Trên ngàn xanh nhí nhảnh 
ánh vàng lay
Muôn chim hót cùng ngày thơ ca hát
Lũ bướm vàng quên lạnh 
thẩn thơ bay
(Thu về)

Đây cũng là khí quyển quen thuộc phong trào Thơ mới. Trong tâm lí tiếp nhận cảnh sắc ấy có lòng yêu đời say đắm, say đắm mà thành lãng mạn, mà tạo thần tiên cho cõi trần. Đây lại là chỗ giao thoa của Chế Lan Viên với Xuân Diệu và cả với Thế Lữ (Thế Lữ tạo thần tiên hơi quá tay nên có hao hụt thi vị trần tục). Hồn người thơ ở đây trong trẻo quá, cách xa lắm với khí đêm u uất cõi ma trong các bài thơ khóc dân Hời.

Giai đoạn sau Điêu tàn, bút pháp ảo trần gian trong trẻo này được vận dụng nhiều. Bài thơ Trưa đơn giản là thành công tiêu biểu cho khuynh hướng này. Những không gian trưa: trưa quanh vườn, trưa quanh gốc, trưa lên trời, trưa lạc vào lăng tẩm, trưa bước xuống những sân ga… các trưa điển hình của hiện thực nhưng được thu nhận bằng cái nhìn ảo. Thực ảo lẫn vào nhau, tạo một cảm xúc chập chờn nửa vào cõi lạ nửa trong cõi đời. Câu thơ mê đi làm tỉnh thức rất nhiều cảm giác, làm ý thức hóa mơ hồ, tài tình lắm:

Trưa, theo tàu bước xuống 
những sân ga
Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa
Đây trưa hiện hình 
trong căn trường nhỏ
Đưa tay thoa những hàng kính vỡ.

Đây là một chặng phát triển cảm xúc Chế Lan Viên sau giai đoạn kinh dị. Đôi lúc ông tạt qua bút pháp ấn tượng, tạo nét siêu thực chừng mực, đủ sức gợi. Ý nghĩa câu thơ lùi lại phía sau nhường cho cảm giác hình thành:

Thâm-khuê-ý-thức chong đèn lạnh
Mặt-nguyệt-tâm-tư tròn vẹn gương
Chiếc én thành son chưa đẫy cánh
Nét đau xanh liễu chửa buông tường.

Chế Lan Viên không phát triển bút pháp này. Hướng ấy là sở trường của Nguyễn Xuân Sanh, nhưng bài thơ Lại thấy thời gian này (viết khoảng 1937 - 1946) là một bài thành công, cho thấy biên độ cảm hứng của Chế Lan Viên khá rộng.

Tập thơ bao trùm giai đoạn sáng tác chín năm kháng chiến Gửi các anh là một tập thơ mỏng, ướm thử nhiều thủ pháp, cốt sao tải được hiện thực cuộc sống lẫn ý tưởng tác giả khi ấy. Khó có thể coi bài nào là hoàn chỉnh, nhưng lại hé cho thấy những khuynh hướng mới, sau này sẽ phát triển rõ trong Ánh sáng và phù sa. Điều đó chứng tỏ hướng tìm của Chế Lan Viên những năm kháng chiến chống Pháp là có ý nghĩa. Chế Lan Viên đã bộc lộ khuynh hướng nâng cao phẩm chất trí tuệ cho thơ. Khuynh hướng này về sau thành một đặc sắc của Chế Lan Viên.

Càng về sau hứng thú khi đọc thơ Chế Lan Viên càng thiên về hứng thú trí tuệ. Và từ trí tuệ mà nảy sinh tình cảm ở một chiều sâu mới.

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn
(Tiếng hát con tàu)

Bài thơ dựng lại con đường Bác Hồ tìm đường cứu nước mang cái tên dài Người đi tìm hình của nước. Bản thân cái tên ấy là một câu thơ hàm súc, hình tượng thơ nằm trong hình ảnh đi tìm hình của nước, nghĩa là tìm dạng thức tồn tại cho đất nước (Độc lập hay Liên hiệp? Cộng hòa hay Quân chủ?...). Cách nói ấy mang tính trí tuệ và trở thành tứ của bài thơ. Bài thơ kết thúc khi cái hình nước hiện ra trong hòn đất Pác Bó được Bác Hồ nâng trên tay ngày trở về:

Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng 
hình đất nước phôi thai.

Phẩm chất trữ tình mới và cả bút pháp mới của Ánh sáng và Phù sa như một cú hích cho cả nền thơ miền Bắc hồi ấy. Nhiều cây bút trẻ bị phong cách Chế Lan Viên thu hút. Từ đó đến khi mất, Chế Lan Viên đều đặn cho xuất bản Hoa ngày thường, chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Hoa trước lăng Người (1976), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984). Các tập thơ vận động trên cùng một trục thi pháp Chế Lan Viên, nhưng mỗi tập là một phát triển dung lượng chất chứa hiện thực: chuyện đánh giặc, chuyện đời thường.

Thơ đánh giặc của Chế Lan Viên là thơ bình luận, tranh luận về phẩm chất anh hùng của cuộc chiến đấu, về lí tưởng cao cả và đức hi sinh to lớn của dân ta. Có thể nói, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ Chế Lan Viên đã thành một chỗ dựa tâm hồn cho người đánh giặc. Còn nhớ những ngày đầu miền Bắc chống không lực Hoa Kì, ngay từ 5/8/1964, tin chiến sự như vang cùng thơ Chế Lan Viên, làm phấn chấn và thôi thúc lòng người đánh giặc. Tên sông tên núi gọi lên khi ấy thấm thía, xao xuyến biết bao nhiêu:

Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ
Mây nước, cửa nhà, văn học, 
ngữ ngôn
Một đảo vắng Hòn Ngư còn chớp bể
Một rặng núi Kì Sơn từng lắm lúc 
mưa nguồn
(Sao chiến thắng)

Tình cảm nhà thơ cộng hưởng với tình cảm toàn dân yêu nước. Suốt mười năm từ 1965 đến 1975, Chế Lan Viên đồng hành cảm xúc mình với cuộc chiến đấu thống nhất đất nước. Thơ ông vào trận, khi hào sảng âm vang như văn Hịch tướng sĩ thời Trần: Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng (1965), Con mắt Bạch Đằng, Con mắt Đống Đa (1966), Suy nghĩ (1966)…; khi bừng bừng căm giận, sôi sục anh hùng ca khi lại mảnh mai thăm thẳm như cái nỗi nhớ mơ hồ một địa danh nhỏ nhoi bên kia vĩ tuyến, thành phố Sông Cầu.

Ngày toàn thắng 30/4/1975, Chế Lan Viên công bố bài thơ dài Ngày vĩ đại, viết 3/5/1975, in hơn một trang nhật báo khổ to. Giọng thơ ào ạt như thuở nào Đại cáo bình Ngô trúc chẻ ngói tan, thần tốc thắng giặc, những thương nhớ đau đớn âm thầm nén lại bấy nhiêu năm cắt chia, bom đạn như được ào ra trang giấy cười, khóc, xót thương, hả hê, hào hứng…Vậy mà chưa đã, “Núi sông lành chỗ cắt vẫn còn đau”, hai tuần sau đó, vẫn thể thơ ấy, một bài dài gần gấp đôi xuất hiện, sâu lắng thâm trầm hơn, cảm nhận trở lại những gì dân ta, cả phía bên này lẫn phía bên kia, đã cắn răng chịu đựng “Đau sông nước muôn phương thân vạc thân cò”. Dung lượng bài thơ đủ để cho tác giả bình luận ở mọi lĩnh vực. Chỗ tình cảm đằm thắm, có chỗ lí sự, tranh luận, cái thế tranh luận của người chiến thắng, bút pháp tung hứng nhưng cũng rất dễ tự say lời.

Thơ đời thường, trong đó có thơ tình yêu, ở Chế Lan Viên rất phong phú. Cũng để dễ nói thì chia ra như thế, thực tế, đánh giặc đã là chuyện đời thường rồi, đề tài nọ vốn lồng vào đề tài kia. Xếp hàng mua gạo, mua vải hẳn là chuyện thường ngày, nhưng cũng là chuyện đánh giặc, là tư thế đánh giặc:

Một triệu quân giặc rối bời 
như canh hẹ
Ở đây ta xếp hàng.
(Xếp hàng)

Chế Lan Viên nắm bắt rất nhanh những chủ đề thơ của các sự kiện, các hiện tượng, thậm chí một nét tâm lí thoáng qua. Bài thơ nào cũng như một chiêm nghiệm xử thế, sức khái quát sâu mà cảm động.

Có bài, kiểu tư duy của Chế làm hiện thực bật ra tình huống thơ. Tiếng chim ở Vĩnh Linh sau ngày Mỹ ngừng bom, ngoại cảnh chỉ có thế, nhưng nội tâm nhà thơ đi qua gian lao của chiến tranh, đã tạo nên tình thế xúc động thơ:
Bốn năm lửa đạn chim bay hết
Nay tiếng bom im cánh biếc về
Tiếng hót đầu tiên, ơ lạ lắm!
Cả làng rưng lệ đứng im nghe
(Chim biếc Vĩnh Linh)

Câu cuối là của lòng nhà thơ tạo thêm cho hiện thực. Ông kĩ càng câu chữ. Gần như bài nào cũng có yếu tố sáng tạo. Người ta yêu tứ thơ của ông, và yêu cả ngôn ngữ, đặc biệt âm điệu câu thơ. Tiếng chim cu gù sau ngày đình chiến cũng trùng xương cốt chủ đề với chim biếc Vĩnh Linh, nhưng phập phồng da thịt cuộc sống xa, gần, xưa, nay. Âm điệu ngắn dài đứt nối vắt qua các câu thơ, như liền lại như đứt, mô tả tiếng chim cu gáy những trưa quê rất khêu gợi:

Hồn đất nước bâng khuâng
 theo tiếng chim dân dã
Như chửa nghe bao giờ. Mà như đã
Nghe rồi. Tự đâu thơi xa xửa xa xưa.
(Vòng cườm trên cổ chim cu)

Hai vế đề tài hoa ngày thường và chim báo bão trong thơ kháng chiến chống Mỹ và mươi năm sau đó của Chế Lan Viên luôn luôn phát triển song hành. Biên độ cảm xúc rộng, bút pháp biến hóa.

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy.

Hình ảnh ấy, trước hết, hợp với chính Chế Lan Viên. Ông là người chủ lực trong cả nền thơ, tạo nên mạch trữ tình lịch sử, trữ tình của những sự kiên lớn. Cảm xúc choán những biên độ rất rộng từ “Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc” đến “Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”. Một đầu là lịch sử, đầu kia đã là thân phận con người.

Đọc thơ ông, thời kháng chiến chống Mỹ, ta dễ say trong chất men thời cuộc, hồn vía như bay lên cùng quán tính của sự kiện vần xoay. Nhưng khi thời cuộc qua đi, sự kiện chấm dứt, lòng người lắng lại. Thơ cộng hưởng được gì với hồn người khi ấy. Kinh nghiệm một nhà thơ lớn nhắc ông tìm lại ở lòng mình. Hôm đọc trên báo bài Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh (1988), qua tâm sự ông vua, đã thoáng thấy:

Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa
Xa tiếng gió xạc xào?
Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ?
Chỉ nghe danh vọng ầm ào? 
Vinh quang xí xố.

Câu cuối cùng ở bài thơ ấy, khi ông vua Đinh kêu lên: “Hồn ta ở đâu?”,  ta nghe thấy khát khao của nhà thơ Chế.

Trong tập Hoa trên đá (1984), Chế Lan Viên đã quay lại với giọng nhỏ trữ tình riêng tư, như hồi nào ông viết Ánh sáng và Phù sa. Tập trước, 1960, đánh dấu sự chuyển hướng thành công, từ chân trời một người đến chân trời mọi người, tập sau, một phần tư thế kỉ đi qua, là sự kết tinh một đời thơ, thu ngoại giới vào hồn mình, thành hồn mình. Hoa trên đá là một mốc chuyển đáng lưu ý của Chế Lan Viên. Chủ thể cá nhân, nông nỗi cá nhân bộc lộ khá nhiều. Tình thế buồn nhưng người không cam phận:

Chả bề nào khuây được bể dâu
Trừ ra bể sâu hơn bể nữa
Bể gây những cuồng phong bão tố
Cũng để quên mình đã lỡ thẳm sâu.
(Bể)

Bi kịch nhưng cũng là cái giá phải trả cho sự biết, nhất là để biết chính mình. Rất nhiều bài thơ như tự vấn trở lại những cái ngỡ như đã biết, thậm chí, đã giảng cho người khác: lẽ nào, chẳng lẽ, ngỡ như… Một nhà thơ nổi tiếng là thông minh, uyên bác và hùng biện như sông Hồng, sông Mã, “gầm reo trong đạn lửa”, lúc cao niên lại muốn im lặng và lắng nghe tiếng thì thầm của con sông Thương nước mắt “sông nhớ thương ai mà nước chảy đôi dòng”. Thơ cảm động ở nỗi sâu nặng tình đời. Tâm hồn nhà thơ như yếu đuối hơn, ông nài nỉ với cuộc đời:

Nghe hết câu chèo đã được không
Vội gì trăm núi với ngàn sông
Lặng đi một phút cho câu hát
Cùng với màu mây thấm tận lòng.
(Nghe hết câu chèo)

Cũng đề tài chiến tranh, sau rất nhiều bài thơ tung hoành như cáo, như hịch, như anh hùng ca giúp người đứng vững giữa bom đạn mà đánh giặc. Nay đất nước yên hàn, lòng ông lắng lại, cân lại những hi sinh “Những giọt lệ khô rồi bây giờ lại nhỏ”. Ông sống lại nỗi lòng người vợ đợi chồng: “Đêm đối diện với ngọn đèn hạt đỗ”. Ông xót xa trong đêm hò giấu nỗi đau từ tạ:

Anh cúi mặt bên đèn khêu lại bấc
Nước mắt nhỏ sau câu hò, 
em lấy tay che.
(Đêm hò từ tạ)

Ông không giấu vị đắng của lòng mình khi trở về quê cũ An Nhơn sau chiến tranh, sau thời chia cắt “Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người”. Có câu thơ thật thà như câu nói mà trong hồn vía nó có chiêm nghiệm của cả đời người:

Ở đâu đong hạnh phúc chén đầy, 
đây chỉ chén vơi
Một hạt tấm con no suốt một đời.
(Kỉ niệm có gì)

Bao nhiêu nỗi buồn của con người thời thơ tránh né, tránh né để lòng yên mà đánh giặc, Chế Lan Viên tự tin mà nhặt lại.
Sau khi ông tạ thế, liên tiếp 3 tập Di cảo được xuất bản ( năm 1992, 1993, 1996). Bạn đọc sửng sốt và vui mừng: một Chế Lan Viên rất khác, thực hơn, bạo hơn, gọn hơn, chắc hơn; do vậy, mới hơn, trẻ hơn và rất lí thú là không hề cắt rời với thi pháp độc đáo Chế Lan Viên. Di cảo là những bài lúc sống, ông chưa đưa in. Chưa đưa in có lẽ vì ngần ngại năng lực tiếp thu của xã hội lúc đó. Ông quan niệm lại nhiều thứ. Chế Lan Viên viết như bổ sung, như đính chính những điều đã viết. Nhiều cách nghĩ ta thấy lạ. Lạ với ông. Lạ cả với nền thơ. Ông như tách khỏi mình mà khảo sát chính mình, ở cái chỗ người ta tưởng ông đắc ý lại là chỗ ông đã xót thương:

Khi tôi cưỡi trên mây
Thì máu người rên trên đất
Mẹ hỏi tôi
Con lên cao mà làm chi
Mẹ ở dưới này cơ cực
Về đi! 
(Tìm đường)

Có người nghĩ Di cảo là thơ sám hối của Chế Lan Viên. Tôi không thấy thế. Di cảo chỉ là sự bổ sung. Chỉ nói nốt những điều trước kia ông dừng lại. Dừng lại không nói, chứ không phải không có nó trong lòng. Di cảo đi xa hơn nhưng vẫn trong hướng tìm của nhà thơ.

Thi pháp Di cảo hiện đại hơn chính vì nó trình bày chất thơ để mộc từ trong lõi. Chỉ riêng Di cảo thôi đủ tạo sự nghiệp một nhà thơ lớn. 
(0) Bình luận
  • Họp lớp
    Tôi bước vào lớp, có lẽ tôi là người đến cuối cùng, bởi trong lớp đã kín gần hết chỗ ngồi, chỉ còn trống một chỗ ở cuối dãy bàn bên phải. Hơi ngượng vì đến muộn nên tôi ngần ngừ trước cửa mấy giây.
  • Sen quán
    Loay hoay mãi chị mới cởi nổi bộ khuy áo. Cái áo cánh nâu bà ngoại để lại. May sao áo của bà không chỉ vừa mà như muốn vẽ lại những đường cong đẹp nhất của chị. Chị là người Hà Nội. Mẹ không biết cụ tổ đến Hà Nội từ bao giờ mà chỉ biết và kể chuyện từ đời ông bà ngoại. Rằng ông ngoại từng là nhà buôn vải lụa còn bà là ca nương ca trù nổi tiếng ở đất kinh kỳ.
  • Một giấc mơ xa
    Vân nằm duỗi chân ở sofa, nghe đài mà hai con mắt cứ ríu lại. Jim và Coen vừa theo bố chúng ra ngoài. Ở thị trấn này, trẻ em và những chú cún luôn được thỏa thích dạo chơi. Ánh nắng của buổi sáng đẹp trời chiếu xuyên qua tấm rèm cửa khiến Vân không nỡ ngủ vùi. Cô sống cùng gia đình chồng ở một vùng phía đông Hà Lan, nơi mà cuối tuần nghe nói mình đi dạo là biết sắp được chở vào rừng. Sáng này nếu không thấy mệt trong người thì cũng đã…
  • Trên đỉnh gió
    Không lãng mạn như hình dung, chiếc tàu chở Lam từ bến cảng thành phố ra đảo chính là “tàu há mồm” có niên đại còn nhiều hơn tuổi của cô. Thủy thủ trên tàu lại càng không như cô vẫn thường tưởng tượng về những chàng lính hải quân đẹp trai, từng trải với trái tim nồng nàn và tâm hồn cực kì bay bổng.
  • Tàu xuôi ra Bắc
    Ba năm trước, tôi gặp Trang trên chuyến tàu mang số hiệu SE đang di chuyển từ miền Nam ra miền Bắc. Lúc đó, tôi ngồi đối diện với Trang ở toa ghế ngồi - toa thường dành cho người đi chặng ngắn. Trong toa xộc lên mùi thuốc lá, mùi dầu gió xanh, mùi bồ kết phảng phất từ mái tóc của mấy người đàn bà và mùi của vô số thứ hàng hóa trên sàn toa.
  • Những hòn đá
    Không ai biết tại sao những người lạ lại chuyển thẳng vào cư trú trong cái làng bẩn thỉu, gồ ghề những đá là đá và quanh năm gió quật. Vợ chồng người lạ nọ đã mua một lâu đài đổ nát nằm trên đồi, sừng sững ở đó từ thuở ấu thơ của họ, và nó thuộc về ngôi làng.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Triển vọng hợp tác bền vững của nghệ thuật múa châu Á
    Trong hai ngày 2/12 và 3/12/2024, Liên hoan Múa Châu Á năm 2024 lần đầu tiên được tổ chức tại Hà Nội với sự tham gia của đông đảo các nghệ sĩ quốc tế.
  • Mở cơ hội mới cho sự phát triển văn hóa trong kỷ nguyên hội nhập
    Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035 (sau đây gọi là Chương trình) vừa được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 8, có thiết kế như một chiến lược toàn diện để khắc phục các điểm nghẽn về nguồn lực, mở ra cơ hội mới cho sự phát triển văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập và hiện đại hóa.
  • Gần 1.000 tác phẩm tham dự Cuộc thi viết “Những tấm gương bình dị mà cao quý” lần thứ 15
    Sáng 2/12, tại Hà Nội, Báo Quân đội nhân dân, Vụ Báo chí-Xuất bản (Ban Tuyên giáo Trung ương), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân và Ngân hàng TMCP Bắc Á phối hợp tổ chức gặp mặt báo chí, giới thiệu Lễ tổng kết, trao giải Cuộc thi viết “Những tấm gương bình dị mà cao quý” lần thứ 15 (2023-2024); phát động Cuộc thi viết lần thứ 16 (2024-2025).
  • Sắp diễn ra triển lãm quốc tế sản phẩm và đồ chơi trẻ em 2024 (IBTE)
    Nối tiếp sự thành công của IBTE 2023, Triển lãm Quốc tế Sản phẩm và Đồ chơi trẻ em Việt Nam sẽ quy tụ hơn 200 thương hiệu hàng đầu đến từ 5 quốc gia và vùng lãnh tham gia IBTE để giới thiệu các sản phẩm mới với chất lượng cao
  • [Podcast] Cháo sườn – Thức quà của mùa đông Hà Nội
    Bên cạnh những món ăn đặc sản Hà Nội như chả cá, phở cuốn, bún chả… thì món cháo sườn cũng rất quen thuộc. Cháo sườn, không chỉ đơn giản là một món ăn dân dã mà còn là thức quà chứa nhiều hoài niệm của người Hà Nội. Những ngày Hà Nội chớm đông như thế này mà được bưng bát cháo sườn nóng hổi, thủ thỉ to nhỏ với nhau những câu chuyện thường ngày quả là thú vị.
Đừng bỏ lỡ
Chế Lan Viên: Anh ấy Điêu tàn, anh ấy Phù sa
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO