Cầu Long Biên – “Chứng nhân lịch sử” của Hà Nội

Phương Anh (T/h)| 23/11/2022 16:08

Nằm trên con đường giao thông huyết mạch nối Hà Nội với các tỉnh phía Bắc, cầu Long Biên - cây cầu năm vắt qua sông Hồng đã trở thành một trong những biểu tượng lịch sử và công nghệ của Hà Nội.

120-nam-cau-long-bien-2821902-2822022-tai-san-vo-gia-cua-nguoi-ha-noi_1(2).jpg
Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Cầu Long Biên, Hà Nội được khởi dựng ngày 13/9/1898, đến nay đã có tuổi thọ trên 100 năm. Theo dòng thời gian, cây cầu chính là “vật chứng” đã chứng kiến và chịu nhiều ảnh hưởng lớn trước những biến động thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại.

Sau khi đặt chân vào nước ta không lâu, đặc biệt là khi đã hoàn thành cuộc xâm chiếm Đông Dương, bắt đầu ổn định bộ máy cai trị, thực dân Pháp nhận thấy để đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết cho công cuộc khai thác thuộc địa thì cần phải lưu ý xây dựng các công trình như đường sắt, đường bộ, đường sông, sân bay, bến cảng... Việc cần phải có một cây cầu hiện đại bắc qua sông Hồng nối liền Hà Nội với các tỉnh phía Bắc, nối Hà Nội với Hải Phòng (nơi có những con tàu của lính viễn chinh Pháp cập bến) nhằm đáp ứng được mục đích phục vụ quân sự, giao thông, góp phần hình thành tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, giải quyết được nhu cầu đi lại thông thương hàng ngày rất lớn của dân chúng, đặc biệt là khi mùa lũ lên của con sông vốn nổi tiếng là hung dữ này đã đặt ra rất cấp bách.

39ef5_caulb(1).jpg
Cầu Long Biên năm 1925.

Với những lý do đó mà trong Báo cáo về chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, toàn quyền Đông Dương Paul Doumer (nhậm chức từ ngày 13/2/1989 đến tháng 3/1902) đã nhấn mạnh sự cần thiết phải có một cây cầu lớn bắc qua sông Hồng (lúc đó còn có tên gọi là sông Cái). Ông đã mạnh dạn bỏ qua những ý kiến không tán thành của một số đông quan chức người Pháp và người bản xứ, của những nhà buôn, của những người có đầu óc cổ hủ mà quyết tâm thực hiện ý đồ của mình. Công lao của ông đã được trả giá xứng đáng, bởi cùng với tên gọi gắn với dòng sông là cầu sông Hồng hay cầu sông Cái thì cầu Long Biên còn được mang tên người đã cho xây dựng và khánh thành: cầu Đume (Paul Doumer). Hiện nay ở đầu cầu vẫn còn hàng chữ nổi ghi tên ông và trên một số dầm thép vẫn còn gắn biển chữ nổi ghi tên công ty xây dựng cầu.

Sau nhiều chuyến đi khảo sát, nhiều tranh cãi, cuối cùng vào năm 1891 hồ sơ cây cầu đã được thiết kế theo những chuẩn mực hiện đại của thời đó. Ngày 6/11/1897, Chính phủ Pháp đã chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật và cho tiến hành tổ chức đấu thầu với 6 công ty tham gia, mỗi công ty đưa ra 2 phương án trước sự thẩm định của một Hội đồng do Thống sứ Bắc kỳ làm chủ trì.

Với phương án được đánh giá là “chắc chắn, trang nhã, có dầm chìa, tạo ra những nhịp cân đối, hài hoà” mà Công ty Daydé & Pillé được Tiểu ban Kỹ thuật của Hội đồng đề nghị chỉnh sửa lại đôi chút, sau đó thông qua. Ngày 17/1/1898, Toàn quyền Đông Dương Paul Domer đã ra Nghị định chọn Công ty này làm nhà thầu chính thức với số tiền được chi là 5.900.000 francs, thời gian thi công trong 5 năm.

Ngày 13/9/1898, lễ khởi công xây dựng cây cầu thế kỷ này đã được thực hiện trước sự chứng kiến của đông đảo các quan chức và dân chúng. Điều hành công việc xây cầu là một đội ngũ gần 40 giám đốc, kỹ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp cùng với hơn 3.000 công nhân người Việt. Khi quyết toán, công trình này chi phí hết 6.200.000 francs (dôi hơn dự kiến ban đầu là 3.000 francs). Số vật liệu phải sử dụng vào khoảng hơn 3.000m đá và 6.000 tấn kim loại (trong đó có 5.000 tấn thép, 165 tấn sắt thép đã rèn, 137 tấn gang, 85 tấn tôn, 5 tấn thép đúc, 7 tấn chì...).

Việc xây dựng được thực hiện suôn sẻ, không gặp trở ngại gì lớn nên chỉ sau có hơn 3 năm đã hoàn thành vào ngày 13/2/1902. Đúng 8giờ30 ngày 28/2/1902, chuyến tàu đầu tiên chở vua Thành Thái và Toàn quyền Đông Dương cùng đoàn tuỳ tùng tới đầu cầu để làm lễ khánh thành. Sau khi khánh thành đúng một ngày, ngày 28/3/1902, Toàn quyền Đông Dương đã ra Nghị định số 953 đưa tuyến đường sắt Hà Nội - Gia Lâm vào hoạt động cùng với việc xoá bỏ bến phà đường sông Hà Nội.

Tổng chiều dài của cầu Long Biên vào khoảng 1.862m gồm có 19 nhịp đặt trên 20 trụ, đường xe lửa ở giữa, hai bên có đường rộng 1,3m dành cho người đi bộ. Từ năm 1902 đến năm 1922, cầu Long Biên chủ yếu phục vụ cho nhu cầu thông thương bằng đường sắt, người đi bộ. Về sau do nhu cầu giao thông tăng lên mới mở rộng thêm phần đường bộ hai bên dành cho xe cơ giới với 4 sàn tránh xe để xe thô sơ khi cần thiết sẽ nhường đường cho xe cơ giới.

kham-pha-cau-long-bien-chung-nhan-lich-su-hon-100-nam-1.jpg
Cầu Long Biên ngày nay.

Nằm vắt qua một con sông sâu và rộng, nổi tiếng là hung dữ với mực nước lên xuống thất thường, kể từ khi xây dựng đến nay, cầu Long Biên đã phải gánh chịu rất nhiều hậu quả nặng nề của thiên tai, địch hoạ. Đó là những trận lụt khủng khiếp gây ra vỡ đê sông Hồng vào năm 1945, vỡ đề Cống Thôn sông Đuống vào năm 1971... đã làm cho các trụ cầu bị xói lở, nước ngập dầm xe lửa... làm cho cầu bị xuống cấp nghiêm trọng. Đó là những trận chiến đấu ác liệt giữa ta và địch xảy ra trên cầu trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến chống Pháp, là những lần bị máy bay địch bắn phá ác liệt trong hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ vào Hà Nội năm 1967 và 1972 đã làm 1.500m cầu, 9 nhịp cầu và 4 trụ cầu bị hư hỏng nặng. Nhưng như một phép thần kỳ, chỉ sau hơn 40 ngày đêm tập trung lực lượng khẩn trương bám trụ sửa chữa, ngày 4/3/1973, cầu Long Biên lại sừng sững hiên ngang thông xe kịp thời phục vụ giao thông.

Cùng với năm tháng, cây cầu lịch sử này đã phải đối mặt với biết bao khó khăn và thử thách của cuộc sống nhưng nó vẫn cố gắng gồng mình lên để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh được con người giao phó. Tuy nhiên, theo khảo sát gần đây thì cầu Long Biên đã bị xuống cấp nhiều. Chính vì thế, công năng sử dụng của cầu Long Biên phải giảm thiểu (dùng cho tàu hoả, xe máy, và xe đạp, người đi bộ...). Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đang phối hợp để tìm phương án phục hồi và xây lại cầu Long Biên.

Trên con đường phát triển, đổi mới và hội nhập quốc tế, chắc chắn thủ đô Hà Nội đã và sẽ có nhiều cây cầu lớn như cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy, cầu Nhật Tân... ra đời để phục vụ đời sống dân sinh, nhưng hình ảnh “Hà Nội có cầu Long Biên, vừa dài vừa rộng bắc qua sông Hồng đỏ nặng phù sa” đã từ lâu đi vào thơ ca, nhạc hoạ, gắn bó máu thịt đối với bao lớp người Hà Nội nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung. Cây cầu thân thương này thực sự đã trở thành một di sản văn hoá, rất xứng đáng được quan tâm, trân trọng gìn giữ và phục dựng, góp phần làm cho cảnh quan Hà Nội thêm cổ kính và sâu lắng.

                                                                 Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01

Bài liên quan
  • Tháp Rùa - Nơi hồn thiêng giữa lòng Thủ đô Hà Nội
    Tháp Rùa là một ngọn tháp nhỏ được xây dựng trên gò Rùa, giữa lòng hồ Hoàn Kiếm, rộng khoảng 350 mét vuông. Nằm ngay vị trí trung tâm của thành phố Hà Nội, sở hữu vị trí vàng như thế bất cứ ai muốn tìm đến nhìn ngắm hình ảnh tháp Rùa cổ kính cũng đều vô cùng dễ dàng.
(0) Bình luận
  • Ô Quan Chưởng - Cửa ô cuối cùng của Hà Nội
    Cửa Ô Quan Chưởng nằm ở phía Đông thành Thăng Long xưa, hiện nay thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là một trong những cửa ô quan trọng của thành Thăng Long còn sót lại cho đến ngày nay. Chứng kiến biết bao biến đổi thăng trầm của Thủ đô, giữa phố phường Hà Nội nhộn nhịp hôm nay, Ô Quan Chưởng vẫn sừng sững uy nghiêm, khoác lên mình vẻ đẹp cổ kính, bình yên...
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Khám phá Tây Bắc tại triển lãm "Tây Park - Ngàn"
    Triển lãm thị giác "Tây Park - Ngàn" được thực hiện dựa trên quá trình 10 năm đi và trải nghiệm tại Tây Bắc (Việt Nam) kết hợp sáng tạo nhiếp ảnh của Nguyễn Thanh Tuấn.
  • Khúc ca tình mẫu tử khi đối thoại với thời gian
    Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai thuộc đề tài quen thuộc nhưng luôn mang sức gợi lớn: đề tài người mẹ. Bài thơ được chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn 7 (tập 1, bộ Cánh diều). Xuyên suốt bài thơ là bóng dáng vất vả, tảo tần của người mẹ gắn liền với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm mà người con dành cho mẹ. Bằng nét bút tinh tế và nghệ thuật biểu đạt đầy sáng tạo, bài thơ tựa như một khúc ru trầm, nhẹ nhàng mà da diết, chạm đến từng góc khuất trong tâm hồn người đọc.
  • Quận Thanh Xuân: Kiên quyết nói “Không” giao xe cho học sinh chưa đủ điều kiện tham gia giao thông
    Phó Chủ tịch UBND quận Thanh Xuân (TP. Hà Nội) Lê Hồng Thắng vừa cho biết, UBND quận mới đây đã ban hành Kế hoạch thực hiện quy định của pháp luật về “Không giao xe cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông” trên địa bàn quận.
  • Khởi tranh Giải bóng đá các cơ quan báo chí toàn quốc Press Cup 2024
    Ngày 21/11, tại Tòa nhà Hội Nhà báo Việt Nam (Hà Nội) đã diễn ra buổi Họp báo và Công bố Vòng chung kết Giải bóng đá các cơ quan báo chí toàn quốc Press Cup lần thứ 8 năm 2024.
Đừng bỏ lỡ
Cầu Long Biên – “Chứng nhân lịch sử” của Hà Nội
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO