z5753593659525_b545694ce9cf4a5bc9726035304c1280(2).jpg
hien-dai-cua-thang-long-ha-noi.png
hat-xam.png

Xưa kia, Xuân La thuộc tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng. Người Sơn Nam Thượng thuở ấy có câu truyền miệng: "Thứ nhất bánh đa, thứ nhì bành cuốn, thứ ba chim cò".

"Chim cò" ở đây là chỉ nghề nặn tò he. Vào thời “bình minh” của làng nghề, những sản phẩm tò he tạo hình “chim cò” được sử dụng vào việc cúng lễ tại gia; tại hội lễ của trong và ngoài làng Xuân La. Không dừng lại ở đó, chúng còn xuất hiện tại những phiên chợ quê nổi tiếng thuộc vùng Sơn Nam Thượng.

image(9).png
Mâm cỗ cúng đêm giao thừa - sản phẩm tò he tham dự Lễ hội Văn hóa dân gian trong đời sống đương đại 2020 của CLB Tò he Xuân La.

Với sức sáng tạo bất tận, không chỉ tạo nên những sản phẩm “đồ chơi chim cò” mà người Xuân La còn “hô biến” những món bột màu truyền thống của mình thành nải chuối, quả cau, chân giò, đĩa xôi... Những sản phẩm đó tạo thành mâm cỗ để người Xuân La thành kính dâng cúng tại đình, chùa. Sản phẩm này có màu sắc tương đối giống đồ thực và có pha thêm chút đường nên ăn được. Và người ta gọi chúng là “con bánh”.

tric-3(1).png

Từ tên khai sinh thuở sơ khai “đồ chơi chim cò” rồi thì “con bánh”, đến lúc này những sản phẩm được chế từ những nắm bột màu truyền thống của người Xuân La được gọi bằng cái tên mới: tò te. Sau đấy hai từ “tò te” được gọi chệch ra thành “tò he”, và gọi như vậy cho đến bây giờ.

hat-xam-2.png

Nghề tò he có ở nhiều vùng quê Việt Nam, nhưng ở làng nghề truyền thống tò he Xuân La, hầu như cả làng ai cũng biết nặn tò he, đó có thể là những cụ già tuổi đã ngoài 80, thanh niên và cả các em bé còn chưa đến tuổi vào lớp 1… Qua các thế hệ, nghề được lưu giữ lại theo hình thức cha truyền con nối. Từ đó đến nay, làng nghề nặn tò he Xuân La đã được gần 400 - 500 năm tuổi.

tric-4.png

Về nước màu, các thế hệ trước của làng Xuân La có truyền thống sử dụng các loại màu có nguồn gốc thực vật đem đun sôi với một ít bột. Các màu chủ đạo gồm có bốn màu: màu vàng được “chiết xuất” từ hoa hòe hoặc củ nghệ; màu đỏ từ quả gấc; màu đen nhờ vào cây nhọ nồi; màu xanh lại lấy từ lá riềng hoặc lá trầu không, rau ngót. Còn các màu sắc trung gian khác đều được tạo từ bốn màu này mà ra. Thời nay, màu thực phẩm công nghiệp được dùng để thay thế màu truyền thống. Vì nó đẹp hơn, gia công nhanh, đều, đỡ tốn thời gian, công sức.

xam-2(2).png

Dụng cụ sản xuất tò he rất đơn giản, chỉ cần một cái vòng bằng nứa, một cái lược nhỏ (một đầu có răng, một đầu vót nhọn), một con dao nhỏ, một miếng sáp ong và một nắm que tre.

Trước kia, người dân làng Xuân La thường nặn sẵn tò he ở nhà rồi mang ra chợ bán, các con tò he không được gắn vào thanh tre như bây giờ mà được nặn và đặt lên những vòng tròn như chiếc đĩa. Sau này, khi que tre ra đời người ta tạo hình tò he trực tiếp lên đó, và làm ngay tại chợ. Có thể dễ dàng bắt gặp họ ở những khu vui chơi giải trí công cộng, những phố phường, chợ quê, nhất là trong những hội hè đình đám.

xam.png

Nghề nặn tò he Xuân La bây giờ đã dần tìm được chỗ đứng trong làng đồ chơi Việt. Tuy nhiên, nó vẫn chỉ được coi là nghề tay trái, để người dân kiếm thêm đồng ra, đồng vào lúc nông nhàn. Những người thợ Xuân La phân tán đi các tỉnh, rồi dừng chân tại các điểm vui chơi, giải trí, trường học, công viên, nơi có nhiều khách du lịch qua lại để nặn bán và giới thiệu tò he – “báu vật” của quê hương.

hat-xam-3.png

Từ làng Xuân La, tò he không chỉ là nghề mưu sinh mà còn là biểu tượng của sự sáng tạo, gắn kết cộng đồng, đặc biệt trong các dịp lễ hội. Qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân, tò he biến hóa thành những hình thù đa dạng, từ các con vật, nhân vật truyền thống đến nhân vật hoạt hình yêu thích của trẻ em, phản ánh phong tục, tập quán và văn hóa dân gian của người Việt.

Nhận thức được giá trị văn hóa tinh thần của tò he, cộng đồng đã nỗ lực khôi phục và phát triển nghề này, từ việc thành lập Câu lạc bộ Làng nghề truyền thống nặn tò he đến việc tổ chức các sự kiện quảng bá và bảo tồn làng nghề. Nó không chỉ nhằm gìn giữ mà còn quảng bá nét đẹp văn hóa dân gian, biến tò he thành một sản phẩm du lịch độc đáo. Nghệ nhân tò he mang niềm vui và sắc màu đến cho cuộc sống thông qua những “chàng cò” rong ruổi khắp nơi để mang lại nụ cười cho trẻ em.

Trải qua bao thăng trầm thời gian, làng Xuân La đã gìn giữ và phát triển nghề nặn tò he qua bao đời, với niềm tin sâu sắc được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: Người Xuân La còn thì tò he còn./.

xam-2(1).png
Lịch sử tái hiện qua bàn tay khéo léo tỉ mỉ của các nghệ nhân tò he làng Xuân La.

Nội dung & thiết kế: Tô Ngọc Oanh

22/08/2024 07:33

Bài liên quan
  • Nghề nặn Tò he ở Xuân La
    Từ nghề nặn chim cò… Làng Xuân La thuộc xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Làng có bốn xóm là xóm Cả, xóm Thượng, xóm Trung và xóm Hạ. Xưa làng nhỏ bé nằm trên các gò đất, dân số vài trăm người. Dần dần, dân số đông đúc lên, làng xóm cũng ngày một mở rộng, phát triển. Xuân La có nhiều nghề, nhưng có một nghề có từ lâu đời khá độc đáo và cho đến nay vẫn là một nghề độc nhất vô nhị trên đất nước ta, đó là nghề nặn chim cò (ngày nay gọi là nghề nặn tò he).
(0) Bình luận
  • Bài cuối: Khẳng định "Tư duy Thủ đô - Hành động Hà Nội"
    Trước những tiềm năng và lợi thế triển khai mô hình khu thương mại và văn hóa (BID) hiệu quả, vận dụng và triển khai Luật Thủ đô 2024, Thành phố Hà Nội đã nỗ lực, thể hiện tinh thần “Tư duy Thủ đô – Hành động Hà Nội” để gỡ khó cho hoạt động BID. “Nghị quyết quy định về thành lập khu phát triển thương mại và văn hóa” đã được HĐND thành phố Hà Nội khóa XVI thông qua tại kỳ họp thứ 25, sẽ khơi thông nguồn lực xã hội, tầm nhìn chiến lược cho một Hà Nội năng động, sáng tạo...
  • Bài 2: “Quả ngọt đầu mùa” khu thương mại và văn hóa Thủ đô
    Sở hữu lợi thế sẵn có, một số địa phương của Hà Nội đã hình thành khu thương mại và văn hóa (BID) và có thể tạo “vết dầu loang” đến các khu vực có cùng lợi thế. Điển hình là làng gốm cổ Bát Tràng, tuyến phố đi bộ ngày cuối tuần quanh thành cổ Sơn Tây… đã tạo ra một điểm đến thú vị với nhiều hoạt động giải trí, văn hóa - nghệ thuật, quảng bá làng nghề, sản phẩm làng nghề hấp dẫn dành cho du khách và người dân.
  • Bài cuối: Còn mãi cốt cách Hà Nội hào hoa, thanh lịch
    Khó có thể kể hết người mưu sinh trong đêm tại Thủ đô. Chỉ biết khi đêm về, ánh đèn vàng soi bóng những phận người mưu sinh bằng đủ thứ nghề, đã góp phần gìn giữ một nét đặc trưng của đời sống văn hóa đêm Thủ đô. Đằng sau mỗi nụ cười đêm, mỗi đôi tay mưu sinh là những giấc ngủ muộn.
  • Bài 1: Tiềm năng, "bệ phóng" đan cài thách thức
    Với tinh thần chủ động, sáng tạo và nhất là “Tư duy Thủ đô - hành động Hà Nội”, HĐND Thành phố Hà Nội khóa XVI, kỳ họp thứ 25 đã thông qua “Nghị quyết quy định về thành lập khu phát triển thương mại và văn hóa” với các quy định luật hóa đầy đủ, có nhiều cơ chế, chính sách đột phá, hấp dẫn để thu hút các nguồn lực xã hội, từ đó tháo gỡ điểm nghẽn, đồng thời “khai mở” khu BID của Thành phố phát triển, khẳng định Hà Nội đã, đang tiên phong trong phát triển khu phát triển thương mại và văn hóa.
  • Bài 3: Sâu lắng tiếng rao đêm đến “phố tây” rộn ràng
    Tiếng nhạc, tiếng mời chào, tiếng trò chuyện của khách trong và ngoài nước ngoài trên “phố tây” Tạ Hiện (phường Hàng Buồm cũ, nay là phường Hoàn Kiếm) từ lúc mặt trời lặn đã trở nên quen thuộc trong bức tranh đầy màu sắc tại Hà Nội. Đối lập phố Tạ Hiện là ngõ phố Thủ đô đêm tĩnh mịch vẫn ngân lên tiếng rao “ai bánh khúc, bánh giò đây” của người bán hàng rong đầy sâu lắng.
  • Bài 2: Sống động chợ đêm trong lòng thành phố
    Màn đêm giăng xuống cũng là lúc một số chợ đêm của Hà Nội bước vào… ngày làm việc. Đêm tại chợ hoa Quảng An (phường Hồng Hà), chợ đầu mối Nam Hà Nội (xã Bình Minh) sôi động hơn bao giờ hết, nơi đây đêm về như ngày hội với cảnh người mua bán nhộn nhịp dẫu thành phố đang chìm dần vào giấc ngủ.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ra mắt tác phẩm đặc sắc của nhà văn Séc Arnošt Lustig
    Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam vừa phát hành bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết “Lời nguyện cầu cho Katerina” của nhà văn Séc Arnošt Lustig (1926–2011). Đây là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất viết về thảm họa Holocaust do dịch giả Bình Slavická chuyển ngữ.
  • Tôn vinh tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam tại “Ngôi nhà chung”
    Từ ngày 1 đến 30/11/2025, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra chuỗi hoạt động tháng 11 với chủ đề “Đại đoàn kết - Tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam”.
  • Tái hiện sinh động tinh hoa di sản múa cổ Thăng Long - Hà Nội
    Tối 31/10/2025, tại Sân khấu Không gian Biểu diễn Nghệ thuật - Ẩm thực đường phố phường Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội), Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội tổ chức Chương trình biểu diễn “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội năm 2025”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ Đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội” do Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội triển khai năm thứ hai.
  • Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam
    Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã công bố toàn văn các dự thảo văn kiện để lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp Nhân dân, cán bộ, đảng viên. Đây là bước đổi mới quan trọng trong phương thức lãnh đạo, thể hiện tinh thần dân chủ, công khai và cầu thị của Đảng ta.
  • UNESCO vinh danh Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn
    Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 02/08/1726, mất ngày 11/06/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên).
Đừng bỏ lỡ
Bài 1: Biểu tượng của làng nghề Xuân La
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO