Văn học cách mạng và các giá trị tinh thần bền vững của thời đại

Bùi Việt Thắng| 12/07/2022 12:05

Vai trò to lớn và quyết định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong sự nghiệp sáng lập nền báo chí, văn học cách mạng Việt Nam được khẳng định trước sau như một, được minh định trong hàng loạt các từ điển, sách chuyên luận về báo chí và văn học đã xuất bản...

Văn học cách mạng và các giá trị tinh thần bền vững của thời đại

1.
Vai trò to lớn và quyết định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong sự nghiệp sáng lập nền báo chí, văn học cách mạng Việt Nam được khẳng định trước sau như một, được minh định trong hàng loạt các từ điển, sách chuyên luận về báo chí và văn học đã xuất bản (một vài dẫn chứng tiêu biểu: “Từ điển tác giả, tác phẩm văn học dùng trong nhà trường”, Nxb Đại học Sư phạm, 2004; “Báo chí Hồ Chí Minh, chuyên luận và tuyển chọn”, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, 2017; “Hồ Chí Minh: Tác gia, tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ”, Nxb Giáo dục, 2005). Nói hình tượng thì, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là nhạc trưởng vĩ đại của nền báo chí, văn học cách mạng Việt Nam có bề dày truyền thống: Tính từ năm 1925 ra đời Báo Thanh Niên - như là “Suối nguồn của Báo chí Cách mạng Việt Nam”; sáng tác của Nguyễn Ái Quốc những năm 20 thế kỷ trước viết bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Pháp đã đặt nền móng cho nền văn học cách mạng, về sau được tập hợp trong tác phẩm “Nguyễn Ái Quốc: Truyện và ký”, nhà văn Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, Nxb Văn học, 1974. 
Thơ ca của các chiến sĩ cộng sản trong ngục tù đế quốc và tinh thần tự do - giải phóng là một bộ phận quan trọng của nền văn học cách mạng buổi chưa giành được chính quyền, tiêu biểu nhất phải kể đến trước tác “Nhật ký trong tù” (1942 - 1943) của Hồ Chí Minh và một phần quan trọng của tập thơ đầu tay của chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi Tố Hữu: “Từ ấy” (1937 - 1946). Thơ ca của những chiến sĩ cách mạng tiêu biểu toát lên tinh thần Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong” (Hồ Chí Minh, “Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”). Đó là thơ ca của một thế hệ trẻ nhiều hoài bão, cao vọng lý tưởng: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim/ Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim” (Tố Hữu, “Từ ấy”, 1938). Thơ ca cách mạng tràn đầy năng lượng lạc quan, cảm hứng tương lai, ngùn ngụt khí thế xung thiên: “Đế quốc tù ta, ta chẳng tù/ Ta còn bộ óc, ta không lo/ Giam người khóa cả chân tay lại/ Chẳng thể ngăn ta nghĩ tự do/ Lời thơ còn tuyên chiến với kẻ thù/ Này này, đế quốc biết hay chăng?/ Ngươi đã già nua, ta trẻ măng/ Trái đất ngươi ôm, ôm chẳng nổi/ Trời kia, ta với cả cung trăng” (Xuân Thủy, “Không giam được trí óc”, viết trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, 1938).
2. “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) và ánh sáng văn hóa dẫn dắt văn hóa/ văn học đất nước thời đại mới. Ngay từ khi mới thành lập Đảng (1930) đã có “Luận cương chính trị”, trong đó, văn hóa được quan tâm như là một trong các mặt trận của cuộc đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, khi cách mạng đã ở thế vận động chiến lược, Đảng càng đặc biệt quan tâm đến mặt trận văn hóa. Nội dung quan trọng của “Đề cương văn hóa Việt Nam” là tiến tới xây dựng một nền văn hóa mới với ba nội dung/ đường lối chính yếu “dân tộc - khoa học - đại chúng”. Gần 80 năm sau, ba nội dung chiến lược văn hóa nêu trong “Đề cương văn hóa Việt Nam” vẫn thời sự, căn cốt trong chiến lược văn hóa mới thông qua tinh thần các hội nghị văn hóa toàn quốc vắt qua hai thế kỷ (1946, 1948, 2021). Ngay sau khi “Đề cương văn hóa Việt Nam” ra đời, đã hình thành một tổ chức có tên Văn hóa cứu quốc (do Đảng tổ chức, lãnh đạo), tập hợp các trí thức, văn nghệ sĩ tiến bộ tham gia hoạt động cách mạng (một số nhà văn hiện thực nổi tiếng trước 1945 đã nhiệt tình tham gia như Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Kim Lân...). Thực tiễn chứng minh: ánh sáng của “Đề cương văn hóa Việt Nam” đã phát tỏa rộng và sâu vào giới trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động văn hóa Việt Nam đúng vào thời kỳ có thể nhiều người trong số họ đang băn khoăn “chọn một dòng hay để nước trôi”. Sáng tác của các nhà văn kể trên vào thời kỳ tiền khởi nghĩa đã chứng tỏ sức lan tỏa, ảnh hưởng của tinh thần tiến bộ, tiến hóa trong “Đề cương văn hóa Việt Nam”. Thực tế này phù hợp với nhận định cho rằng, các nhà văn hiện thực gần với nhân dân lao khổ nên cũng có điều kiện gần với cách mạng hơn các nhà văn lãng mạn.
“Tuyên ngôn Độc lập”, áng hùng văn thời đại được lãnh tụ Hồ Chí Minh - vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội lịch sử, ngày 2/9/1945. “Tuyên ngôn Độc lập” vừa là một văn kiện lịch sử vô giá, vừa là một mẫu mực của văn chính luận của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Một tác phẩm văn học thấm đẫm tư tưởng lớn về độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân hướng theo những tư tưởng nhân quyền, dân quyền tiến bộ từng được thể hiện sâu sắc trong những bản tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp được Người tiếp thu, chọn lọc, nâng cao phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hơn thế, “Tuyên ngôn Độc lập” còn là một áng văn mẫu mực về tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt - thân thương, cao quý, trong sáng, giàu có biểu cảm. Khi Người đọc “Tuyên ngôn Độc lập”, là khi: “Giọng của Người không phải sấm trên cao/ Ấm từng tiếng thấm vào lòng mong ước/ Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước/ Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau” (Tố Hữu, “Sáng tháng Năm”).
3. “Cách mạng, kháng chiến và nhà văn” đã trở thành một mệnh đề văn hóa mới kể từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946). Nhưng trong thực tế thì cuộc kháng chiến chống Pháp đã nổ ra ở miền Nam trước đó một năm (23/9/1945), khi quân Pháp núp sau lưng quân Anh nổ súng gây chiến trước ở Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh, thành khác ở miền Nam: “Miền Nam đi trước về sau/ Bước đường cách mạng dài lâu đã từng” (Tố Hữu, “Ba mươi năm đời ta có Đảng”). Trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”. Chiến lược này khẳng định văn hóa không thể đứng ngoài chính trị (kháng chiến) và kháng chiến phải thực sự là cuộc đấu tranh giành thắng lợi của văn hóa Việt Nam trước sự xâm lăng văn hóa ngoại bang.
Tác phẩm “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” (1948) của đồng chí Trường Chinh (lúc đó là Tổng Bí thư Đảng) như một tiền đề lý luận của nền văn hóa/ văn học cách mạng được trình bày trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948). Trong tác phẩm này, tác giả đã trình bày thấu suốt và thuyết phục mối quan hệ giữa văn hóa (trong đó có văn học nghệ thuật) với thực tiễn đời sống mới (như là thước đo các giá trị mới). Đồng thời tác giả cũng đề xuất tinh thần của nền văn học mới do Đảng lãnh đạo lấy phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa làm nền móng. Nếu trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (1946) khẩu hiệu “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” (Hồ Chí Minh) được coi như kim chỉ nam, ngọn đuốc phát tỏa ánh sáng rạng ngời thì đến Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948), Người nêu khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”. Từ lý luận đến thực tiễn, từ thực tiễn nâng lên thành lý luận là đặc sắc tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951”, Người viết: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
 Lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và cuộc trường chinh vĩ đại theo những “dấu chân người lính” tạo tác nên “Dáng dứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”. Vóc dáng nhà văn bỗng lớn vụt lên vì: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu gian lao” (Xuân Diệu, “Những đêm hành quân”). Nền văn học cách mạng Việt Nam trải qua thời kỳ tiền khởi nghĩa, đặc biệt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ đã được đánh giá chính xác và công bằng: “Xứng đáng đứng vào hàng ngũ những nền văn học tiên phong chống đế quốc của thời đại”. Hình tượng trung tâm của nền văn học cách mạng là nhân dân anh hùng, vì “Thời đại anh hùng đòi hỏi một nền nghệ thuật anh hùng” (M. Gorki). Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết những câu thơ tráng lệ, ngút ngàn hào khí Đông A về thời đại và con người Việt Nam anh hùng những năm chiến tranh: “Không ai có thể ngủ yên trong đời chật/ Buổi thủy triều vẫy gọi những vừng trăng/ Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt/ Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm/ Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt/ Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?). Các thi nhân thời đại cách mạng, bằng ngôn từ nghệ thuật, đã khắc họa những tượng đài bằng thơ về người chiến sĩ - anh Bộ đội Cụ Hồ trong sáng tác của mình. Có thể kể tới: Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Thôi Hữu, Tố Hữu, Quang Dũng, Hữu Loan, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Minh Huệ, Vũ Cao, Nguyễn Bao, Phạm Tiến Duật, Phạm Ngọc Cảnh, Thu Bồn, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Lê Anh Xuân... với một “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”. Đây cũng là thời đại xuất hiện những tác phẩm văn xuôi mang âm hưởng sử thi - lãng mạn về cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc qua “Đất nước đứng lên” (Nguyên Ngọc), “Trước giờ nổ súng” (Lê Khâm), “Cao điểm cuối cùng” (Hữu Mai), “Sống mãi với Thủ đô” (Nguyễn Huy Tưởng), “Dấu chân người lính” (Nguyễn Minh Châu), “Người mẹ cầm súng” (Nguyễn Thi), “Chiến sĩ” (Nguyễn Khải), “Vùng trời” (Hữu Mai), “Sống như Anh” (Trần Đình Vân), “Rừng U Minh” (Trần Hiếu Minh)... Câu nói đầu cửa miệng ở Việt Nam thời chiến tranh “Ra ngõ gặp anh hùng” đã ứng nghiệm vào văn học.
4. Đại thắng mùa xuân 1975 và chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh vĩ đại đã lập lại nền hòa bình của nhân dân Việt Nam sau 10.000 ngày (1945 - 1975) khói lửa của cuộc chiến tranh trường kỳ, gian khổ và ác liệt nhất trong lịch sử thế giới thế kỷ XX. Hòa bình được trả bằng một giá đắt: “Việt Nam ơi máu và hoa ấy/ Có đủ mai sau thắm những ngày” (Tố Hữu, “Việt Nam máu và hoa”). Lịch sử sang trang - Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1976), thúc đẩy quá trình kiến thiết trang mới của nền văn học cách mạng, khi đất nước hòa bình, thống nhất, giang sơn thu về một mối. Lịch sử không phải là văn học. Nhưng văn học không thể đứng ngoài/ đứt lìa với lịch sử, luôn nương theo truyền thống “văn sử bất phân” của dân tộc từ hàng nghìn năm.
 Công cuộc Đổi mới (1986) như một tất yếu lịch sử, văn hóa. Công cuộc Đổi mới giải phóng năng lượng sáng tạo văn hóa/ văn học. Các nghị quyết/ chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước đều quan tâm đặc biệt đến đổi mới và phát triển văn học dưới ánh sáng của văn hóa. Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ ba (11/2021) đã xác quyết vị thế của văn hóa trong chiến lược phát triển đất nước từ tầm nhìn trung hạn và dài hạn. Các thế hệ nhà văn tiếp nối theo quy luật “tre già măng mọc” đã cùng đồng lòng xây đắp ngôi đền văn học dân tộc ngày càng sáng đẹp theo tinh thần Chân - Thiện - Mỹ. Không chỉ trong chiến tranh mà cả trong thời bình, nhà văn vẫn giữ vững tinh thần đồng hành cùng đất nước, nhân dân. Đổi mới đã tạo điều kiện và cơ hội để các nhà văn Việt Nam bước lên đại lộ sáng tạo. Trải qua 10 đại hội (1957 - 2020), Hội Nhà văn Việt Nam (với hơn 1000 hội viên) luôn giữ nguyên tắc hoạt động, được thể hiện trong slogan báo Văn nghệ “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội”. Nhiều nhà văn đã ngã xuống trên chiến trường, được phong danh hiệu liệt sĩ (như các nhà văn Trần Đăng, Thâm Tâm, Nam Cao, Dương Thị Xuân Quý, Lê Anh Xuân...), Anh hùng (như nhà văn Chu Cẩm Phong, Sơn Tùng...). Cùng với công cuộc Đổi mới, văn học Việt Nam đang tìm đường nhập vào “bản đồ văn học thế giới”, vì biết “ngoài trời còn có trời”, với quyết tâm làm cho “tiếng Việt không còn cô đơn”, vì cao vọng “chạm” vào được “mẫu số chung của nhân loại”. Đó là niềm hy vọng thiêng liêng cần được cổ vũ kịp thời. Chúng ta đã khiêm tốn “xuất khẩu” bước đầu văn học Việt Nam (chủ yếu là tiểu thuyết) vào những thị trường văn học khó tính như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản...
Văn hóa là chân tủy của văn học. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ ba (11/2021), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong bài phát biểu, đã nhấn mạnh đến tiên đề “Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Văn học cách mạng Việt Nam phát triển trong bối cảnh lịch sử Đảng cầm quyền, trong thời đại Hồ Chí Minh với lý tưởng cao cả “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Định đề “Văn học là nhân học” (M. Gorki) trường tồn ý nghĩa lịch sử và giá trị nhân văn cao cả theo nguyên tắc Chân - Thiện - Mỹ. Trong khái niệm/ phạm trù văn học dân tộc Việt Nam thời hiện đại (thế kỷ XX), có thể khẳng định: nền văn học cách mạng là chủ lưu, chủ đạo, quan trọng song hành với nền văn học yêu nước, tiến bộ ở những không gian - thời gian sáng tác khác do hoàn cảnh lịch sử tạo nên (văn học miền Nam 1954 - 1975, trong vùng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, chẳng hạn). Đất nước hòa bình, thống nhất đã ngót nửa thế kỷ (1975 - 2022), vì thế thống nhất văn hóa là điều kiện tiên quyết để thống nhất nhân tâm. Bởi lẽ, gần 100 triệu người dân Việt Nam đều là con Rồng cháu Tiên, đều thấm đượm nghĩa tình đồng bào (cùng bọc). Đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu viết cách đây gần 70 năm vẫn còn vang vọng: “Ta đi tới, không thể nào chia cắt/ Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau/ Trời ta chỉ một trên đầu/ Bắc Nam liền một biển/ Lòng ta không giới tuyến/ Lòng ta chung một Cụ Hồ/ Lòng ta chung một Thủ đô/ Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam” (“Ta đi tới”, 8/1954).
(0) Bình luận
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
  • Miền ký ức vọng về từ mùa thu Hà Nội
    Thủ đô Hà Nội mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là mùa thu. Trong nhiều thi phẩm viết về Hà Nội, “Mùa thu về Hà Nội” của Mạc Phương là một bài thơ giàu chất trữ tình, gợi mở bức tranh mùa thu thơ mộng, đồng thời chan chứa nỗi niềm yêu thương, hoài niệm về một mối tình xưa.
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ra mắt tác phẩm đặc sắc của nhà văn Séc Arnošt Lustig
    Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam vừa phát hành bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết “Lời nguyện cầu cho Katerina” của nhà văn Séc Arnošt Lustig (1926–2011). Đây là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất viết về thảm họa Holocaust do dịch giả Bình Slavická chuyển ngữ.
  • Tôn vinh tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam tại “Ngôi nhà chung”
    Từ ngày 1 đến 30/11/2025, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra chuỗi hoạt động tháng 11 với chủ đề “Đại đoàn kết - Tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam”.
  • Tái hiện sinh động tinh hoa di sản múa cổ Thăng Long - Hà Nội
    Tối 31/10/2025, tại Sân khấu Không gian Biểu diễn Nghệ thuật - Ẩm thực đường phố phường Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội), Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội tổ chức Chương trình biểu diễn “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội năm 2025”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ Đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội” do Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội triển khai năm thứ hai.
  • Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam
    Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã công bố toàn văn các dự thảo văn kiện để lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp Nhân dân, cán bộ, đảng viên. Đây là bước đổi mới quan trọng trong phương thức lãnh đạo, thể hiện tinh thần dân chủ, công khai và cầu thị của Đảng ta.
  • UNESCO vinh danh Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn
    Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 02/08/1726, mất ngày 11/06/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên).
Đừng bỏ lỡ
Văn học cách mạng và các giá trị tinh thần bền vững của thời đại
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO