Dù không thể tiến hà nh các kiểm tra tâm lý học và thần kinh đối với những người điên vĩ đại của lịch sử, nhưng các nhà sử học đã nghiên cứu những tà i liệu cá nhân của họ, bao gồm thư từ, tà i liệu, tác phẩm và công trình nghiên cứu, cũng như những nguồn thông tin khác. Kết quả là , hóa ra, nhiửu thiên tà i vĩ đại nhất thế giới lại là những người có đầu óc không được bình thường.
Tuy chưa có bằng chứng khoa học xác thực vử mối liên hệ nà y, nhưng các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Toronto (Canada) phát hiện, những người là m công việc có tính sáng tạo cao như nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, ... có rất ít hoặc thậm chí không có khả năng tự kiửm chế - đây là một khả năng thuộc vử tiửm thức cho phép chúng ta phớt lử những kích thích không quan trọng hoặc không liên quan tới bản thân.
Tạp chí Discovery dẫn lời giáo sư tâm lý học Jordan Peterson thuộc trường ĐH Toronto nói: Một người bình thường sẽ có phản xạ đánh giá và phân loại một thực thể từ môi trường, rồi sau đó quên nó đi, mặc dù rất có thể vật thể đó phức tạp và thú vị hơn đánh giá ban đầu của họ. Ngược lại, nhóm người có óc sáng tạo cao lại luôn quan tâm đến mọi thứ trong môi trường xung quanh và tìm kiếm những điửu mới mẻ nơi chúng.
John Nash (trái) và diễn viên Russel Crowe và o vai ông trong phim A Beautiful Mind. |
John Nash (sinh năm 1928)
John Nash (trái) và diễn viên Russel Crowe và o vai ông trong phim A Beautiful Mind). Bộ phim của Hollywood A Beautiful Mind (Một tâm hồn đẹp) từng đoạt 4 giải Oscar có kịch bản phửng theo cuộc đời của thiên tà i toán học - John Nash và cuộc chiến chống lại căn bệnh tâm thần phân liệt của ông.
Tên đầy đủ của ông là John Forbes Nash Jr. à”ng là nhà toán học người Mử¹, chuyên ngà nh lý thuyết trò chơi, hình học vi phân, phương trình vi phân.
Các lý thuyết của ông cung cấp cái nhìn sâu sắc vử lực lượng chi phối cơ hội và những sự kiện bên trong các hệ thống phức tạp trong cuộc sống thường ngà y. Lý thuyết của ông đã được sử dụng trong kinh tế thị trường, tính toán, sinh học tiến hóa, trí tuệ nhân tạo, kế toán, lý thuyết chính trị và quân đội.
John Nash mắc chứng ảo giác và hoang tưởng tự đại trong suốt khoảng 30 năm của cuộc đời. à”ng thường có ảo giác nghe thấy giọng nói của nhiửu người văng vẳng bên tai nhưng lại không nhìn thấy ai cả.
à”ng còn mắc chứng hoang tưởng tự đại, cho rằng mình đang bị những nhân vật quan trọng trên thế giới truy lùng.
Và o cuối thập niên 1980, sau nhiửu lần nhập viện và chống chọi với các chứng rối loạn trên, cuối cùng ông đã có thể tạm trở lại bình thường.
Năm 1994, John Nash được trao giải Nobel vử Khoa học Kinh tế cho những công trình nghiên cứu vử lý thuyết trò chơi trước đây của mình.
Nói vử sự bình phục của bản thân, John Nash cho rằng, đó không hẳn là một niửm vui. à”ng coi sự tỉnh táo trong suy nghĩ sẽ đặt ra giới hạn trong nhận thức của một người vử mối liên hệ giữa bản thân với thế giới, với vũ trụ.
Vincent van Gogh (1853 - 1890)
Vincent van Gogh là danh hoạ Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng. Nhiửu bức tranh của ông nằm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất và cũng đắt giá nhất trên thế giới.
Chỉ trong 10 năm cuối đời, họa sĩ đã sáng tác hơn 2.000 tác phẩm, trong đó có khoảng 900 bức họa hoà n chỉnh và 1.100 bức vẽ hoặc phác thảo.
Phần lớn những tác phẩm nổi tiếng nhất của Van Gogh được sáng tác và o hai năm cuối đời, thời gian ông lâm và o khủng hoảng tinh thần tới mức tự cắt bên tai trái vì tình bạn tan vỡ với họa sĩ Paul Gauguin. Sau đó, Van Gogh liên tục phải chịu đựng những cơn suy nhược thần kinh và cuối cùng ông tự kết liễu đời mình.
Van Gogh thường xuyên gặp phải vấn đử vử thần kinh, đặc biệt trong những năm cuối đời. Đã có rất nhiửu cuộc tranh luận nổ ra trong việc tìm nguyên nhân thực sự cho chứng bệnh thần kinh của họa sĩ và ảnh hưởng của nó lên các tác phẩm của ông.
Người ta đã đưa ra khoảng 30 chẩn đoán khác nhau cho triệu chứng bệnh của Van Gogh, trong đó phải kể tới chứng tâm thần phân liệt, rối loạn chức năng, giang mai, động kinh và rối loạn chuyển hóa porphyrine cấp tính.
Bất kì chứng bệnh nà o trong số trên cũng có thể là thủ phạm dẫn tới sự suy nhược thần kinh của họa sĩ. Tình trạng của ông còn bị trầm trọng thêm do ăn uống thiếu chất, lao lực, mất ngủ và nghiện rượu, nhất là rượu absinthe.
Người ta còn đưa ra một giả thuyết cho thể trạng yếu của họa sĩ là do ngộ độc chì. Các mà u vẽ mà Van Gogh thường dùng đửu có gốc chì, và một trong các triệu chứng của nhiễm độc chì đó là căng võng mạc dẫn tới việc thường xuyên nhìn thấy các quầng sáng, một đặc điểm thường thấy trong các tác phẩm cuối đời của họa sĩ.
Edgar Allan Poe (1809 - 1849)
Edgar Allan Poe là nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình, nhà thơ lớn của Mử¹. Poe là ông tổ của thể loại truyện trinh thám và hình sự. à”ng là m thơ, viết văn xuôi, viết phê bình văn học và là m cả biên tập viên sách, nhưng mang lại cho ông nhiửu danh tiếng nhất là những truyện ngắn thuộc thể loại kinh dị và trinh thám.
Từ khi còn là một đứa trẻ sơ sinh cho tới lúc từ giã cõi đời, Poe đã phải sống một cuộc sống đầy nỗi đau khổ, bất hạnh.
Trong suốt bốn mươi năm ngắn ngủi của cuộc đời mình, Poe nhiửu lần phải đối mặt với những cái chết bi thảm xảy đến với người thân. Bố, mẹ, anh trai, mẹ nuôi, rồi người vợ thân yêu của ông lần lượt chết bởi bệnh lao phổi. Điửu nà y có thể đã để lại những vết thương tâm lý và tình cảm sâu sắc nơi ông, lý giải tại sao ông thường bị ám ảnh và nói nhiửu vử cái chết.
Những năm tháng cuối đời (từ năm 1847 - 1849), Poe sống trong tình trạng lao đao, nửa mất trí. Cái chết của ông cũng mang nhiửu bí ẩn như chính những tác phẩm của ông.
Theo hồ sơ bệnh án, Edgar Poe được đưa và o bệnh viện trong trạng thái bất tỉnh. Sau đó, ông hồi tỉnh, người ra nhiửu mồ hôi, bị chứng ảo giác và thường cãi nhau với một người tưởng tượng. Tiếp đến là giai đoạn ông bị mất trí nhớ, cấm khẩu rồi tắt thở.
Gần đây, dư luận nghiêng vử giả thiết do nhà văn Mử¹ Mathew Pearla đưa ra. Học giả nà y đã dà nh 3 năm nghiên cứu vử cái chết của Edgar Poe để rồi đi đến kết luận là Poe chết bởi bệnh u não.
Một trong những căn cứ mà Mathew Pearl dựa và o là các bà i tường thuật của cánh báo chí vử những gì họ quan sát được trong lần khai quật tử thi của Edgar Poe năm 1875.
Theo những người nà y, họ đã vô cùng sửng sốt khi thấy bộ não teo tóp của người quá cố không bị phân hủy mà vẫn nằm trong hộp sọ. Tìm hiểu qua một chuyên gia giải phẫu, Mathew được biết, trường hợp như vậy là vô cùng hạn hữu. Nó chỉ có thể xảy ra với một số ít trường hợp não bị vôi hóa do u bướu, khiến chủ nhân khi chết rồi mà não vẫn vón cục, không chịu phân hủy.
Ludwig van Beethoven (1770 - 1827)
Beethoven là nhà soạn nhạc cổ điển người Đức (nhưng ông sống chủ yếu ở Wien, ào). à”ng được khắp nơi công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất và có ảnh hưởng tới rất nhiửu những nhà soạn nhạc, nhạc sử¹ và khán giả vử sau.
Cuộc sống của Beethoven có rất nhiửu khó khăn. Cha ông là người nghiện rượu và thô lỗ, mẹ ông lại hay đau ốm. Trong sáu anh chị em của Beethoven chỉ còn có hai người sống sót. Và o khoảng 5 tuổi, ông bị chứng viêm tai giữa, có lẽ đây là nguyên nhân khiến ông bị điếc sau nà y.
Trong cuộc đời của mình, Ludwig van Beethoven đã phải chịu đựng sự hà nh hạ đau đớn vử mặt thể xác. Nguyên nhân bệnh tật của ông cho đến hôm nay vẫn còn là đử tà i nghiên cứu của các nhà khoa học.
Và o đầu tháng 12 - 2005, Phòng thí nghiệm Quốc gia Argonne ở Chicago, Mử¹ đã đưa ra bằng chứng rằng, ngay từ thời thanh niên, Ludwig van Beethoven đã bị nhiễm độc chì rất nặng. Công bố nà y dựa và o sự phân tích một mẫu xương sọ của danh họa bằng X quang. Như vậy, có thể nói, ngay từ khi mới 20 tuổi, Ludwig van Beethoven đã chịu đựng tác động rất nặng của tình trạng nhiễm độc chì.
Tà i liệu lịch sử còn cho biết, ngay từ khoảng 20 tuổi, tính cách của Ludwig van Beethoven đã bắt đầu thay đổi. Cùng thời gian đó, ông cũng thường than phiửn vử chứng đau bụng không rõ nguyên do của mình. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa rõ liệu bệnh điếc của ông có phải do nhiễm độc chì hay không.
Và o khoảng 30 tuổi, Ludwig van Beethoven bắt đầu biểu lộ những triệu chứng đầu tiên của bệnh xơ hóa thính giác và triệu chứng nà y ngà y cà ng tồi tệ hơn, không có cách gì cứu vãn. Đến năm 1819 thì ông điếc hoà n toà n. Từ đó, ông không còn trình diễn nữa cũng như không thể chỉ huy dà n nhạc được. Việc giao tiếp lúc nà y đối với ông cũng cực kử³ khó khăn.
Lúc được bác sĩ cho biết cái chết gần kử, Beethoven không buồn, trái lại cảm thấy nhẹ người, tuyên bố với bạn bè: "Các bạn hãy vỗ tay đi! Mà n bi kịch đã đến lúc hạ rồi!".
Isaac Newton (1642 - 1727)
Isaac Newton là nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học tự nhiên và nhà toán học vĩ đại người Anh. Mặc cho những đóng góp to lớn của ông với khoa học, ông vẫn bị "mang tiếng là người rất khó gần, tính khí vô cùng thất thường, hay thậm chí là có những biểu hiện của chứng tâm thần phân liệt.
Sinh ra trong một gia đình nông dân, may mắn cho nhân loại, Newton không là m ruộng giửi nên được đưa đến Đại học Cambridge để trở thà nh luật sư.
Một đợt dịch bệnh đã khiến trường Cambridge đóng cửa, do đó ông trở vử nhà . Trong hai năm liửn sống ở nhà , cách biệt hẳn với thế giới bên ngoà i, Newton dà nh hết thì giử để suy tư và nghiên cứu khoa học.
Kết quả thật siêu phà m: chưa đầy 25 tuổi, Newton đã thực hiện được ba phát minh khiến ông nghiễm nhiên trở nên ngang hà ng với các thiên tà i khoa học của mọi thời đại.
Điửu đáng ngạc nhiên là Newton không hử công bố ba phát minh cực kử³ quan trọng của ông vử toán học vi phân, mà u sắc của ánh sáng và định luật hấp dẫn.
Với bản tính rất dè dặt, kín đáo, ông không thích tiếng tăm, không thích tranh luận và có ý muốn xếp xó những phát minh của mình.
Những gì ông công bố sau nà y đửu do bạn bè thúc ép, song ông lại hối hận vì trót mửm yếu nghe lời họ. à”ng nghĩ rằng, công bố sẽ khiến cho người ta phê bình, rồi từ phê bình đi tới tranh luận, điửu mà Newton, với bản tính nhạy cảm, rất lấy là m khổ tâm.
Sinh thời, Newton rất nhạy cảm trước những phản bác đối với các lý thuyết của ông, thậm chí đến mức không xuất bản những công trình cho đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất là Hooke mất.
à”ng tử ra ngà y cà ng lập dị và o cuối đời khi thực hiện những phản ứng hoá học và cùng lúc tiên tri ngà y tháng cho các sự kiện trong Kinh Thánh.
Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc là m thí nghiệm. Tác hại của hóa chất nà y với cơ thể có thể giải thích một phần cho sự lập dị của thiên tà i vĩ đại nà y.