Những thiên tài có đầu óc không bình thường

Danh thắng & Di tích Hà Nội - Ngày đăng : 12:08, 17/05/2011

(NHN) Chúng ta không biết chắc liệu chỉ số IQ cao có liên quan gì đến các bệnh thần kinh hay không, nhưng có vẻ những người thông minh thường không được bình thường cho lắm.

Dù không thể tiến hà nh các kiểm tra tâm lý học và  thần kinh đối với những người điên vĩ đại của lịch sử­, nhưng các nhà  sử­ học đã nghiên cứu những tà i liệu cá nhân của họ, bao gồm thư từ, tà i liệu, tác phẩm và  công trình nghiên cứu, cũng như những nguồn thông tin khác. Kết quả là , hóa ra, nhiửu thiên tà i vĩ đại nhất thế giới lại là  những người có đầu óc không được bình thường.

Tuy chưa có bằng chứng khoa học xác thực vử mối liên hệ nà y, nhưng các nhà  nghiên cứu tại trường Аại học Toronto (Canada) phát hiện, những người là m công việc có tính sáng tạo cao như nhà  thơ, nhà  văn, họa sĩ, ... có rất ít hoặc thậm chí không có khả năng tự kiửm chế - đây là  một khả năng thuộc vử tiửm thức cho phép chúng ta phớt lử những kích thích không quan trọng hoặc không liên quan tới bản thân.

Tạp chí Discovery dẫn lời giáo sư tâm lý học Jordan Peterson thuộc trường АH Toronto nói: Một người bình thường sẽ có phản xạ đánh giá và  phân loại một thực thể từ môi trường, rồi sau đó quên nó đi, mặc dù rất có thể vật thể đó phức tạp và  thú vị hơn đánh giá ban đầu của họ. Ngược lại, nhóm người có óc sáng tạo cao lại luôn quan tâm đến mọi thứ trong môi trường xung quanh và  tìm kiếm những điửu mới mẻ nơi chúng.

John Nash (trái) và  diễn viên Russel Crowe và o vai ông trong phim A Beautiful Mind

John Nash (trái) và  diễn viên Russel Crowe và o vai ông trong phim A Beautiful Mind.

John Nash (sinh năm 1928)

John Nash (trái) và  diễn viên Russel Crowe và o vai ông trong phim A Beautiful Mind). Bộ phim của Hollywood A Beautiful Mind (Một tâm hồn đẹp) từng đoạt 4 giải Oscar có kịch bản phửng theo cuộc đời của thiên tà i toán học - John Nash và  cuộc chiến chống lại căn bệnh tâm thần phân liệt của ông.

Tên đầy đủ của ông là  John Forbes Nash Jr. à”ng là  nhà  toán học người Mử¹, chuyên ngà nh lý thuyết trò chơi, hình học vi phân, phương trình vi phân.

Các lý thuyết của ông cung cấp cái nhìn sâu sắc vử lực lượng chi phối cơ hội và  những sự kiện bên trong các hệ thống phức tạp trong cuộc sống thường ngà y. Lý thuyết của ông đã được sử­ dụng trong kinh tế thị trường, tính toán, sinh học tiến hóa, trí tuệ nhân tạo, kế toán, lý thuyết chính trị và  quân đội.

John Nash mắc chứng ảo giác và  hoang tưởng tự đại trong suốt khoảng 30 năm của cuộc đời. à”ng thường có ảo giác nghe thấy giọng nói của nhiửu người văng vẳng bên tai nhưng lại không nhìn thấy ai cả.

à”ng còn mắc chứng hoang tưởng tự đại, cho rằng mình đang bị những nhân vật quan trọng trên thế giới truy lùng.

Và o cuối thập niên 1980, sau nhiửu lần nhập viện và  chống chọi với các chứng rối loạn trên, cuối cùng ông đã có thể tạm trở lại bình thường.

Năm 1994, John Nash được trao giải Nobel vử Khoa học Kinh tế cho những công trình nghiên cứu vử lý thuyết trò chơi trước đây của mình.

Nói vử sự bình phục của bản thân, John Nash cho rằng, đó không hẳn là  một niửm vui. à”ng coi sự tỉnh táo trong suy nghĩ sẽ đặt ra giới hạn trong nhận thức của một người vử mối liên hệ giữa bản thân với thế giới, với vũ trụ.

Vincent van Gogh (1853 - 1890)

Vincent van Gogh là  danh hoạ Hà  Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng. Nhiửu bức tranh của ông nằm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất và  cũng đắt giá nhất trên thế giới.

Chỉ trong 10 năm cuối đời, họa sĩ đã sáng tác hơn 2.000 tác phẩm, trong đó có khoảng 900 bức họa hoà n chỉnh và  1.100 bức vẽ hoặc phác thảo.

Phần lớn những tác phẩm nổi tiếng nhất của Van Gogh được sáng tác và o hai năm cuối đời, thời gian ông lâm và o khủng hoảng tinh thần tới mức tự cắt bên tai trái vì tình bạn tan vỡ với họa sĩ Paul Gauguin. Sau đó, Van Gogh liên tục phải chịu đựng những cơn suy nhược thần kinh và  cuối cùng ông tự kết liễu đời mình.

Những thiên tài có đầu óc không bình thường

Van Gogh thường xuyên gặp phải vấn đử vử thần kinh, đặc biệt trong những năm cuối đời. Аã có rất nhiửu cuộc tranh luận nổ ra trong việc tìm nguyên nhân thực sự cho chứng bệnh thần kinh của họa sĩ và  ảnh hưởng của nó lên các tác phẩm của ông.

Người ta đã đưa ra khoảng 30 chẩn đoán khác nhau cho triệu chứng bệnh của Van Gogh, trong đó phải kể tới chứng tâm thần phân liệt, rối loạn chức năng, giang mai, động kinh và  rối loạn chuyển hóa porphyrine cấp tính.

Bất kì chứng bệnh nà o trong số trên cũng có thể là  thủ phạm dẫn tới sự suy nhược thần kinh của họa sĩ. Tình trạng của ông còn bị trầm trọng thêm do ăn uống thiếu chất, lao lực, mất ngủ và  nghiện rượu, nhất là  rượu absinthe.

Người ta còn đưa ra một giả thuyết cho thể trạng yếu của họa sĩ là  do ngộ độc chì. Các mà u vẽ mà  Van Gogh thường dùng đửu có gốc chì, và  một trong các triệu chứng của nhiễm độc chì đó là  căng võng mạc dẫn tới việc thường xuyên nhìn thấy các quầng sáng, một đặc điểm thường thấy trong các tác phẩm cuối đời của họa sĩ.

Edgar Allan Poe (1809 - 1849)

Edgar Allan Poe là  nhà  văn, nhà  viết kịch, nhà  phê bình, nhà  thơ lớn của Mử¹. Poe là  ông tổ của thể loại truyện trinh thám và  hình sự. à”ng là m thơ, viết văn xuôi, viết phê bình văn học và  là m cả biên tập viên sách, nhưng mang lại cho ông nhiửu danh tiếng nhất là  những truyện ngắn thuộc thể loại kinh dị và  trinh thám.

Những thiên tài có đầu óc không bình thường

Từ khi còn là  một đứa trẻ sơ sinh cho tới lúc từ giã cõi đời, Poe đã phải sống một cuộc sống đầy nỗi đau khổ, bất hạnh.

Trong suốt bốn mươi năm ngắn ngủi của cuộc đời mình, Poe nhiửu lần phải đối mặt với những cái chết bi thảm xảy đến với người thân. Bố, mẹ, anh trai, mẹ nuôi, rồi người vợ thân yêu của ông lần lượt chết bởi bệnh lao phổi. Аiửu nà y có thể đã để lại những vết thương tâm lý và  tình cảm sâu sắc nơi ông, lý giải tại sao ông thường bị ám ảnh và  nói nhiửu vử cái chết.

Những năm tháng cuối đời (từ năm 1847 - 1849), Poe sống trong tình trạng lao đao, nử­a mất trí. Cái chết của ông cũng mang nhiửu bí ẩn như chính những tác phẩm của ông.

Theo hồ sơ bệnh án, Edgar Poe được đưa và o bệnh viện trong trạng thái bất tỉnh. Sau đó, ông hồi tỉnh, người ra nhiửu mồ hôi, bị chứng ảo giác và  thường cãi nhau với một người tưởng tượng. Tiếp đến là  giai đoạn ông bị mất trí nhớ, cấm khẩu rồi tắt thở.

Gần đây, dư luận nghiêng vử giả thiết do nhà  văn Mử¹ Mathew Pearla đưa ra. Học giả nà y đã dà nh 3 năm nghiên cứu vử cái chết của Edgar Poe để rồi đi đến kết luận là  Poe chết bởi bệnh u não.

Một trong những căn cứ mà  Mathew Pearl dựa và o là  các bà i tường thuật của cánh báo chí vử những gì họ quan sát được trong lần khai quật tử­ thi của Edgar Poe năm 1875.

Theo những người nà y, họ đã vô cùng sử­ng sốt khi thấy bộ não teo tóp của người quá cố không bị phân hủy mà  vẫn nằm trong hộp sọ. Tìm hiểu qua một chuyên gia giải phẫu, Mathew được biết, trường hợp như vậy là  vô cùng hạn hữu. Nó chỉ có thể xảy ra với một số ít trường hợp não bị vôi hóa do u bướu, khiến chủ nhân khi chết rồi mà  não vẫn vón cục, không chịu phân hủy.

Ludwig van Beethoven (1770 - 1827)

Beethoven là  nhà  soạn nhạc cổ điển người Аức (nhưng ông sống chủ yếu ở Wien, ào). à”ng được khắp nơi công nhận là  nhà  soạn nhạc vĩ đại nhất và  có ảnh hưởng tới rất nhiửu những nhà  soạn nhạc, nhạc sử¹ và  khán giả vử sau.

Cuộc sống của Beethoven có rất nhiửu khó khăn. Cha ông là  người nghiện rượu và  thô lỗ, mẹ ông lại hay đau ốm. Trong sáu anh chị em của Beethoven chỉ còn có hai người sống sót. Và o khoảng 5 tuổi, ông bị chứng viêm tai giữa, có lẽ đây là  nguyên nhân khiến ông bị điếc sau nà y.

Những thiên tài có đầu óc không bình thường

Trong cuộc đời của mình, Ludwig van Beethoven đã phải chịu đựng sự hà nh hạ đau đớn vử mặt thể xác. Nguyên nhân bệnh tật của ông cho đến hôm nay vẫn còn là  đử tà i nghiên cứu của các nhà  khoa học.

Và o đầu tháng 12 - 2005, Phòng thí nghiệm Quốc gia Argonne ở Chicago, Mử¹ đã đưa ra bằng chứng rằng, ngay từ thời thanh niên, Ludwig van Beethoven đã bị nhiễm độc chì rất nặng. Công bố nà y dựa và o sự phân tích một mẫu xương sọ của danh họa bằng X quang. Như vậy, có thể nói, ngay từ khi mới 20 tuổi, Ludwig van Beethoven đã chịu đựng tác động rất nặng của tình trạng nhiễm độc chì.

Tà i liệu lịch sử­ còn cho biết, ngay từ khoảng 20 tuổi, tính cách của Ludwig van Beethoven đã bắt đầu thay đổi. Cùng thời gian đó, ông cũng thường than phiửn vử chứng đau bụng không rõ nguyên do của mình. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa rõ liệu bệnh điếc của ông có phải do nhiễm độc chì hay không.

Và o khoảng 30 tuổi, Ludwig van Beethoven bắt đầu biểu lộ những triệu chứng đầu tiên của bệnh xơ hóa thính giác và  triệu chứng nà y ngà y cà ng tồi tệ hơn, không có cách gì cứu vãn. Аến năm 1819 thì ông điếc hoà n toà n. Từ đó, ông không còn trình diễn nữa cũng như không thể chỉ huy dà n nhạc được. Việc giao tiếp lúc nà y đối với ông cũng cực kử³ khó khăn.

Lúc được bác sĩ cho biết cái chết gần kử, Beethoven không buồn, trái lại cảm thấy nhẹ người, tuyên bố với bạn bè: "Các bạn hãy vỗ tay đi! Mà n bi kịch đã đến lúc hạ rồi!".

Isaac Newton (1642 - 1727)

Isaac Newton là  nhà  vật lý, nhà  thiên văn học, nhà  triết học tự nhiên và  nhà  toán học vĩ đại người Anh. Mặc cho những đóng góp to lớn của ông với khoa học, ông vẫn bị "mang tiếng là  người rất khó gần, tính khí vô cùng thất thường, hay thậm chí là  có những biểu hiện của chứng tâm thần phân liệt.

Sinh ra trong một gia đình nông dân, may mắn cho nhân loại, Newton không là m ruộng giửi nên được đưa đến Аại học Cambridge để trở thà nh luật sư.

Một đợt dịch bệnh đã khiến trường Cambridge đóng cử­a, do đó ông trở vử nhà . Trong hai năm liửn sống ở nhà , cách biệt hẳn với thế giới bên ngoà i, Newton dà nh hết thì giử để suy tư và  nghiên cứu khoa học.

Những thiên tài có đầu óc không bình thường

Kết quả thật siêu phà m: chưa đầy 25 tuổi, Newton đã thực hiện được ba phát minh khiến ông nghiễm nhiên trở nên ngang hà ng với các thiên tà i khoa học của mọi thời đại.

Аiửu đáng ngạc nhiên là  Newton không hử công bố ba phát minh cực kử³ quan trọng của ông vử toán học vi phân, mà u sắc của ánh sáng và  định luật hấp dẫn.

Với bản tính rất dè dặt, kín đáo, ông không thích tiếng tăm, không thích tranh luận và  có ý muốn xếp xó những phát minh của mình.

Những gì ông công bố sau nà y đửu do bạn bè thúc ép, song ông lại hối hận vì trót mửm yếu nghe lời họ. à”ng nghĩ rằng, công bố sẽ khiến cho người ta phê bình, rồi từ phê bình đi tới tranh luận, điửu mà  Newton, với bản tính nhạy cảm, rất lấy là m khổ tâm.

Sinh thời, Newton rất nhạy cảm trước những phản bác đối với các lý thuyết của ông, thậm chí đến mức không xuất bản những công trình cho đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất là  Hooke mất.

à”ng tử ra ngà y cà ng lập dị và o cuối đời khi thực hiện những phản ứng hoá học và  cùng lúc tiên tri ngà y tháng cho các sự kiện trong Kinh Thánh.

Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc là m thí nghiệm. Tác hại của hóa chất nà y với cơ thể có thể giải thích một phần cho sự lập dị của thiên tà i vĩ đại nà y.

Vietnamnet