(NHN) Trong cuộc kháng chiến 30 năm (1946-1975) quân đội ta thực hà nh hà ng trăm trận đánh, hà ng chục chiến dịch, trong đó có hai chiến dịch lịch sử có ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của dân tộc chống ngoại xâm trong thế kỷ XX: đó là chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975). Cả hai chiến dịch lịch sử chấn động địa cầu đó đửu in đậm dấu ấn của những nhà tham mưu chiến lược tà i ba của quân đội ta.
Trong cuộc chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là trận Điện Biên Phủ. Sau nà y, dần dần tìm hiểu chúng ta mới vỡ lẽ nhiửu điửu hệ trọng, mà cho đến nay (2012) chắc vẫn còn không ít người chưa được biết.
Bước và o mùa hè năm 1953, dưới sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, tướng Lê Trọng Tấn và tướng Cao Văn Khánh được "bí mật" giao nhiệm vụ nghiên cứu chuyên đử: "Tiến công tiêu diệt Tập đoà n cứ điểm".
Sau một thời gian nghiên cứu, có tham khảo nhiửu tà i liệu quân sự nước ngoà i, trong tầm nhìn của Đại đoà n trưởng 312 Lê Trọng Tấn và Đại đoà n phó 308 Cao Văn Khánh đửu là những người chỉ huy tà i giửi của hai đại đoà n chủ lực đầu tiên của quân đội ta, các ông đã nghiêm túc đưa ra nhận xét và đánh giá vử "Tập đoà n cứ điểm" gây xôn xao trong giới quân sự đương thời. Các ông cho rằng: "Tập đoà n cứ điểm" không có gì là ghê gớm như quân đội Pháp tuyên truyửn. Tướng Lê Trọng Tấn nhận xét tiếp: "Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tập trung xem xét phân tích kử¹ những chỗ mạnh, chỗ yếu thực sự của "Tập đoà n cứ điểm" có nguyên nhân của nó. Đó là sự trưởng thà nh tác chiến vượt bậc của quân đội ta!".
Sau khi nghiên cứu đối tượng tác chiến trong tầm nhìn chiến lược và đánh giá so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, tướng Lê Trọng Tấn và tướng Cao Khánh đửu thống nhất cho rằng: "Tập đoà n cứ điểm" là sản phẩm của một chuỗi thất bại liên tiếp của quân đội Pháp, một chiến lược đối phó và bị động!"
Hai ông cũng cho rằng hình thức "Tập đoà n cứ điểm" đã từng xuất hiện ở trình độ thấp trong chiến dịch Hoà Bình (cuối năm 1951), đã bị quân đội ta tiêu diệt. Tiếp đó lại xuất hiện nhưng ở mức cao hơn trong chiến dịch Cánh Đồng Chum (Là o) và Nà Sản (cuối năm 1952 - đầu năm 1953) tất cả đửu bị quân đội ta đánh bại.
Trong đại chiến thế giới lần thứ II (1941-1945), phát xít Đức đã từng bố trí trước Berlin hình thức "Tập đoà n cứ điểm" mạnh hơn Pháp rất nhiửu và đặt tên "Chiến lược Con Nhím".
Nhưng cái "Con Nhím" ở Đức thì có xe tăng, máy bay, pháo binh yểm trợ tối đa, mà không ngăn cản nổi sức tiến công như vũ bão của Hồng quân Liên Xô. Như vậy, "Tập đoà n cứ điểm" cũng chỉ có giới hạn nhất định. Không có gì là bất khả xâm phạm. Vì vậy, nếu "Tập đoà n cứ điểm" tiếp tục xuất hiện, thì đó chỉ là hệ quả tất yếu của sự thất bại của địch cao hơn. Quân đội ta sẽ có cách giải quyết với "Tập đoà n cứ điểm" cao hơn đó. Để đánh nó, tiêu diệt nó, không phải là vấn đử khó khăn lắm.
Đến đây, chuyên đử nghiên cứu: "Tiến công tiêu diệt Tập đoà n cứ điểm" đã được Bộ Quốc phòng thảo luận và xây dựng thà nh phương án tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là một kết luận cực kử³ quan trọng đối với Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh.
Những kết luận khách quan lịch sử vử chuyên đử "Tiến công tiêu diệt tập đoà n cứ điểm" là sự đóng góp to lớn của hai nhà tham mưu chiến lược tà i ba: Lê Trọng Tấn và Cao Văn Khánh, đã góp phần xứng đáng cho trận Điện Biên Phủ toà n thắng, thu lại được một nửa giang sơn gấm vóc, là m chấn động địa cầu.
Lịch sử đương đại Việt Nam đã có bước tiến thần kử³! Nếu như trận Điện Biên Phủ (1954) vừa kết thúc được 20 năm (1954-1975), đưa đến giải phóng hoà n toà n miửn Bắc. Thì nay, lịch sử đã lặp lại, nhưng để giải phóng một nửa nước còn lại đang nằm trong tay bọn Mử¹ - Ngụy, là để thống nhất đất nước, thu giang sơn vử một mối.
Sư đoà n 10, Quân đoà n 3 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất
Đầu năm 1973, Bộ Tổng tham mưu thà nh lập "Tổ trung tâm nghiên cứu kế hoạch quân sự giải phóng miửn Nam". Một lần nữa, tướng Lê Trọng Tấn lại được cấp trên cử đảm nhiệm "Tổ trưởng" tổ nghiên cứu nà y. Nhưng lúc nà y, Lê Trọng Tấn không là Đại tá, Sư đoà n trưởng 312 mà là Trung tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trải nghiệm trận mạc trong 30 năm đã đưa tri thức quân sự của ông đến đỉnh cao. Nhưng đây là đử tà i bao gồm cả dải đất miửn Nam, chứ không phải chỉ là thung lũng lòng chảo Điện Biên Phủ năm xưa, đối tượng tác chiến bây giử là can thiệp Mử¹ với hơn một triệu quân Ngụy trang bị vũ khí tối tân.
Công việc thật khó khăn và nặng nử. Nhưng với tà i thao lược của mình, tướng Lê Trọng Tấn đã lựa chọn bước đi thích hợp. Công việc đầu tiên là ông lựa chọn các thà nh viên trong tổ do ông lãnh đạo. Các thà nh viên gồm: Tướng Vũ Lăng, Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu và hai Phó cục trưởng Cục Tác chiến là Võ Quang Hồ và Lê Hữu Đức. Như vậy, "tổ nghiên cứu" gồm bốn thà nh viên, quá trình là m việc "tuyệt đối bí mật"!
Sau khi đã có tổ chức, tướng Lê Trọng Tấn bắt tay và o nội dung nghiên cứu, có nhiửu nội dung, nhưng đi sâu các vấn đử chủ yếu là :
Thứ nhất, là nhận định đánh giá chính xác đối tượng tác chiến là quân đội Sà i Gòn vử tổ chức, biên chế, trang bị và vị trí đóng quân.
Thứ hai, là thái độ phản ứng của Mử¹ nếu quân Giải phóng miửn Nam mở cuộc Tổng công kích.
Thứ ba, là lựa chọn thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến, giải phóng miửn Nam.
Thứ tư, là hướng tiến công và những mục tiêu tiến công chủ yếu trong từng thời kử³.
Thứ năm, là kết hợp tiến công với nổi dậy trong trận đánh cuối cùng phải lớn hơn, sâu rộng hơn cuộc tiến công và nổi dậy các năm 1968, 1972 trước đó.
Sau hơn một năm thu nhập số liệu ta và địch, "kế hoạch chiến lược giải phóng hoà n toà n miửn Nam" dần dần hình thà nh, được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trao đổi bổ sung nhiửu lần để ngà y cà ng hoà n thiện hơn.
Tại hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, từ 30/9 đến 8/10/1974, các đồng chí Quân ủy Trung ương cũng tham dự. Tại đây, Trung tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng, Tổ trưởng nghiên cứu Lê Trọng Tấn đã báo cáo đử án: "Kế hoạch chiến lược hai năm và riêng năm 1975 với quyết tâm hoà n thà nh sự nghiệp giải phóng miửn Nam trong hai năm 1975 -1976".
Sau hai ngà y thảo luận, Bộ Chính trị thống nhất: "Quyết tâm động viên sự nỗ lực của toà n Đảng, toà n quân và toà n dân ở hai miửn, mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và là m tan rã toà n bộ quân Ngụy, đánh chiếm Sà i Gòn - sà o huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thà nh thị khác, đánh đổ ngụy quyửn Trung ương và các cấp, già nh toà n bộ miửn Nam, hoà n thà nh cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà !".
Ngót hai tháng sau đó, ngà y 10/3/1975 chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu mở mà n. Tiếp đó là chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Rồi đến chiến dịch Hồ Chí Minh. Lịch sử đã lặp lại, chỉ với 50 ngà y (10/3/1975 - 30/4/1975) tương đương thời gian chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã hoà n thà nh sứ mệnh vẻ vang giải phóng miửn Nam, thu giang sơn vử một mối!