Tôi được biết ông khi còn là học trò của cô Hà Huy Tuyết, vợ ông - cô giáo dạy văn học phương Tây ở Trường Đại học Văn hóa những năm 1977. Bấy giử nhà ông ở trên tầng 3, khu tập thể Kim Liên (Hà Nội), trong một căn phòng hẹp. Sau nà y ông được chuyển đến căn hộ chung cư ở Bách Khoa, nhiửu phòng hơn. Nhưng ông sống giản dị lắm. Nhà , ngoà i treo tranh ông vẽ và sách ra, gia tà i chẳng có gì, hình như giá trị vật chất không thấy có gì vướng bận đến ông.
Khi đọc lại thơ hai câu của nhà thơ Phạm Hổ, ngoà i gia tà i viết cho thiếu nhi, ông còn viết truyện ngắn: Cây bánh tét của người cô, giống như một chiếc bánh chưng ở miửn Bắc, ngà y Tết cái bánh tét ở Bình Định, quê ông, được viết rất ám ảnh khôn nguôi vử tấm lòng của người cháu với tuổi thơ đi chúc Tết ở nhà người cô. Day dứt mãi, chỉ là chiếc bánh tét to và cái bánh tét nhử trong lòng bạn đọc vử một người cô nghèo ở Bình Định.
Rồi đọc Gió biển Qui Nhơn, người dân địa phương hay gọi xuống Giã. Hơi thở của biển, hơi thở của Phủ Mới gieo và o ký ức ông không nhòa. Hay như truyện ngắn Người chị tà n tật, ông viết đằm tay, xót thương, vử người chị. Một đời sống ở Bình Định của giữa thế kỷ 20 hiện hữu trong bút pháp tả thực; một truyện Xu-xoa ơi! Xu “xoa, ngân ngấn vui buồn.
Nhưng bạn đọc vẫn nhớ thơ Phạm Hổ, thơ hai câu của ông đúc kết kinh nghiệm, đúc kết sự đời: Hình như giấc mơ còn muốn nói với ta một điửu gì mà ta chưa nghe được/khiến khi thức giấc ta vẫn còn ngơ ngác, bâng khuâng. Hay ở một câu khác/trong giấc mơ ta là ta, hay là ai khác/sao thức giấc rồi mắt ta còn đang khóc (Ta với giấc mơ). Với Phạm Hổ giấc mơ đẹp còn quý hơn và ng.
Thơ ông có nhiửu giấc mơ đẹp và ông viết thơ nhớ má, nhớ chị, nhớ Qui Nhơn: Gặp lại bãi cát và ng/có những con còng chạy vội vử hang. Và giấc ngủ gối đầu trên sóng biển ông còn nhớ/sáng dậy hai và nh tai rin rít cát. Biển Qui Nhơn va đập sóng và o nhà thơ và ông luôn khắc khoải nhớ/trong tim tôi/tiếng sóng, tiếng sóng và o bử. Ngay cả khi đi xa, ra nước ngoà i mà trái tim ông vẫn hướng nội, vẫn/nghe đầy trời nỗi nhớ quê hương.
Thiên nhiên trong thơ Phạm Hổ như tranh ông vẽ, cũng bảng lảng diệu vợi gam mà u nhẹ. Khi qua đồng lúa ông viết: à”i hạt lúa trong tay nhìn bé nhử/mà nỗi lo no ấm lớn nghìn năm. Cái hạt lúa nhử, đương nhiên hạt lúa nhử dẹt rồi vậy mà câu thơ sau gánh cả một nỗi niửm trĩu nặng của con người, sự ấm no, cây lúa trong mắt nhà thơ còn là cái chốt cà i cửa trong ngôi nhà nông thôn. Cây lúa đem lại bao nhiêu hạnh phúc khác.
Khi viết vử trăng, Phạm Hổ nêu rõ lý do nhà thơ không nhìn: Mình anh... chẳng dám nhìn trăng nữa/trăng sáng anh cà ng thấy vắng em. Còn khi Phạm Hổ qua rừng/luồn rừng đi mãi ngỡ rừng theo. Với tâm trạng trà n cảm xúc của cây và lá xanh nhưng không đả động đến lá đến cây, mà động đến rừng.
Và khi ông chạm mắt nhìn đến đất và hoa, một Phạm Hổ tôn vinh đất giấu kín sự lặng lẽ/đất luôn tạo cho các loà i hoa bao nhiêu mùi hương cao quý: Ngửi hương thơm/con người thường quên mất đất, chỉ khen hoa.
Có vẻ thơ hai câu người đọc, đọc ở tốc độ nhanh cho rằng thơ ngắn, dễ đọc, nhưng thơ Phạm Hổ, thơ ngắn mà đọc xong thấy không dễ, ta phải nghĩ thêm, ông giấu ta ý tưởng gì nhỉ, ông đẩy thiên nhiên lên rạng rỡ rồi hóa và o nỗi đau con người. Bà i thơ có tên Cuối cùng: Phải bao tiếng nói mới thà nh lặng im/phải bao hỗn độn mới thà nh trang nghiêm.
Hửi cái sự cuối cùng mà rất khó khăn nà y không dễ lý giải. Nhà thơ Phạm Hổ ngoà i đời, ông vốn rất hiửn, như nhà thơ Trần Đăng Khoa từng viết vử ông... ông không có khả năng nghĩ xấu vử người khác. Phạm Hổ sống còn lặng lẽ hơn thế, khi còn là m ở Báo Văn nghệ, ông từng giúp bao đứa trẻ mồ côi nên người tử tế, giúp các cháu có công ăn việc là m lương thiện.
Tôi nhớ một lần đến thăm cô giáo Tuyết, Phạm Hổ vắng nhà , có một cậu học trò đến thăm ông Hổ, cháu nói tên là D. ở một trại mồ côi, cháu được ông Phạm Hổ giúp đỡ, cháu đã có việc là m, và cháu chẳng biết địa chỉ của ông để nói lời cảm ơn. Cháu hửi thăm mãi ở tòa Báo Văn nghệ rồi đến đây, chỉ nói với ông Hổ rằng - cháu rất biết ơn ông.
Không chỉ một mình cháu, mà còn nhiửu bạn cháu cũng được ông giúp đỡ. Cháu còn hay tin rằng, ông Hổ giửi võ lắm, nhưng mà ông hiửn khô. Đó là một Phạm Hổ hiửn sử¹. Đã từng có một huyửn thoại vử ông, có một kẻ đi đường đi sai là n lại còn hung hăng đánh ông, vậy mà ông Hổ chỉ tránh nhẹ gã hung hăng kia đã ngã sóng soà i. Nhiửu người xúm lại xem, thì ông Hổ lẫn và o đám đông. à”ng tránh đám đông chứ không phải ông sợ gì.
Lại nhớ một lần cô giáo Tuyết kể, trong lần đi công tác xa vử nhà lại bằng xe xích lô. Cả nhà từ tầng ba xuống đón ông ở tầng một. Tất cả mừng rỡ, quấn quýt, thế là ông xích lô lợi dụng sự tíu tít ấy, đã rong xe chở đi mất một cái túi xách chất đầy quà tặng cho cả nhà . Vợ con ông tiếc ngẩn ngơ, nhưng ông Hổ nói đại ý, thôi để cho có quà tặng cho gia đình nhà bác xích lô ấy. Chắc nhà bác xích lô nà y túng mới là m thế. Thể tất cho họ, để lần khác anh sẽ mua quà bù lại cho em và con. Cô Tuyết kể. Cả nhà đửu thấy ba Hổ đúng.
Hãy giở đọc thơ hai câu Rộng hẹp của ông: Cứ tưởng rộng hẹp là chuyện của áo quần/hay đâu cũng là chuyện của yêu thương...
Cả cuộc đời nhà thơ Phạm Hổ đã sống tận tụy để yêu thương con người, viết cho con người từ tác phẩm dà nh cho trẻ thơ đến người lao khổ. Sau giấc mơ, không phải người từng trải như ông, người biết rất rõ thực tại cuộc sống không hử đơn giản: Trở vử cuộc sống thực/thêm bao niửm vấn vương. Và phần kết cho cuộc đi và đến của Phạm Hổ lại là : Nơi xa nhất lại là chính mình/bao giử ta hiểu được ta/bao giử ta đến được ta.
Đi và đến trong thơ Phạm Hổ vẫn là cái đích mà bao người đang sống đang mơ giấc mơ gần hay xa trong một chặng dà i trên cõi nhân gian. Đến được chính mình khó sao? Nhà thơ Phạm Hổ nổi tiếng là nhà thơ viết cho thiếu nhi, nhưng nhà văn Lê Phương Liên lại nhìn nhận ở góc khác, ông rất thà nh công ở lĩnh vực thơ hai câu và truyện ngắn viết cho người lớn nữa.
Ví như Lê Phương Liên bảo: Khi biên tập, tập truyện ngắn - Cây bánh tét của người cô, chị đọc Gió biển Qui Nhơn của Phạm Hổ, Lê Phương Liên phải và o Qui Nhơn bằng được, vì Phạm Hổ tả hay và ám ảnh lắm.
Còn nhà phê bình văn học Vân Thanh lại tâm sự: Tôi đã có nhiửu năm biên tập văn học thiếu nhi, là m việc cùng anh Phạm Hổ, mỗi khi có ít tiửn thưởng, lễ, Tết gì đó, anh Hổ rất hay góp lại rồi gửi đi cho người nghèo. Anh ấy rất hay thương người.
Nếu như ở thế giới bên kia, Phạm Hổ không hiểu được mình, thì thế giới bên nà y, đồng nghiệp lại thấu hiểu ông. à”ng đã đi qua cõi người, và để lại những điửu tốt đẹp cho nhân gian