Nguyễn Nhược Pháp: “Ngày xưa”

Vũ Quần Phương| 19/08/2019 07:04

Nguyễn Nhược Pháp sinh ngày 12/12/1914 tại Hà Nội. Ông là con trai học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Ông học luật. Có thơ đăng báo từ năm 18 tuổi. Tập thơ đầu tay Ngày xưa xuất bản lúc tác giả 20 tuổi đã xếp Nguyễn Nhược Pháp vào hàng những nhà thơ nổi tiếng khi ấy. Ngoài thơ, ông còn viết truyện ngắn, soạn kịch và viết phê bình.

Nguyễn Nhược Pháp: “Ngày xưa”

Nguyễn Nhược Pháp sinh ngày 12/12/1914 tại Hà Nội. Ông là con trai học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Ông học  luật. Có thơ đăng báo từ năm 18 tuổi. Tập thơ đầu tay Ngày xưa xuất bản lúc tác giả 20 tuổi đã xếp Nguyễn Nhược Pháp vào hàng những nhà thơ nổi tiếng khi ấy. Ngoài thơ, ông còn viết truyện ngắn, soạn kịch và viết phê bình. Lĩnh vực nào cũng có nét riêng hứa hẹn. Riêng thơ, đã sớm được khẳng định. Rất tiếc, đời thơ Nguyễn Nhược Pháp quá ngắn, ông mất vì bệnh lao ở Hà Nội ngày 19/12/1938, giữa tuổi đời 24, chưa vợ con.

Tập Ngày xưa chỉ vẻn vẹn có mười bài thơ. Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam, phải kêu lên: “Thơ in ra rất ít mà được người ta yêu mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp. Đến nay gần một thế kỷ đã chất chồng trên những trang thơ mỏng manh ấy mà lòng xúc động của bạn đọc vẫn tươi nguyên. Có gì lạ trong những nét thơ mảnh dẻ mềm mại ấy? Có gì mê hoặc trong cái hồn thơ lặng lẽ và hóm hỉnh ấy?

Đúng như tên của tập: Ngày xưa. Những bài thơ của Nguyễn Nhược Pháp toàn nói chuyện ngày xưa. Xưa trong cổ tích (Sơn Tinh - Thủy tinh), trong dã sử (Mị Châu - Trọng Thủy), trong lịch sử (Nguyễn Thị Kim...), trong đời sống (Chùa Hương, Đi cống…). Tác giả gợi lại nét đẹp xưa của cảnh và người. Hoài cổ nhưng không xa vắng, tưởng nhớ nhưng không buồn thương. Tác giả cho ta hưởng lại những ý vị của thời xưa trong cái nhìn yêu đời, trong sáng, đầy ngộ nghĩnh của người bấy giờ.

Bài thơ Sơn Tinh - Thủy Tinh kể lại câu chuyện cổ. Cái cốt truyện mượn trong cổ tích. Nhưng những chi tiết nửa thực nửa ảo, vừa có lí vừa vô lí, vừa nghiêm túc vừa buồn cười là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Nhược Pháp. Nhất là cái giọng kể. Đọc Nguyễn Nhược Pháp nên lưu ý cái giọng thơ. Còn nhiều bí ẩn trong cái giọng ấy lắm. Nó rất biến hóa, lúc là kể, lúc là cảm - nhiều khi nó là tất cả, trang trọng đấy mà cũng hài hước đấy, lôi cuốn một cách mê hoặc. Xét ngẫu nhiên một đoạn, như đoạn tả Mị Nương: 

Mị Nương xinh như tiên trên trần 
Tóc xanh viền má hây hây đỏ
Miệng nàng bé thắm như san hô
Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ
Hùng Vương thường nhìn con yêu quá 
Chắp tay ngẩng lên trời tạ ân

Toàn những câu thơ giản dị, chi tiết thực lắm, thực hơn Nguyễn Du tả Kiều mà lại rất gợi, rất ảo, đúng là đẹp như tiên (!) Những ý xen vào: “Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ”, ấy là thói mê gái thời Hùng Vương đã được hiện đại hóa rất tinh và rất hóm. Hóm ở chỗ ông diễu cái bệnh sính thơ “ái tình" của người thời ông, diễu rất nhẹ nhàng, phảng phất trong mấy chữ bao nhiêu người làm thơ là một nụ cười độ lượng. Trong thơ ta, hình như cũng chỉ Nguyễn Nhược Pháp mới có nụ cười trào phúng không mất lòng ai ấy.

Một nhà thơ cùng thời với Nguyễn Nhược Pháp cũng hay quay về đề tài “ngày xưa” là Phạm Huy Thông. Nhưng hai người hai bút pháp trái nhau và đều có tài năng. Phạm Huy Thông hùng tráng, kỳ vĩ, anh hùng ca. Nguyễn Nhược Pháp dịu dàng, tinh tế, trữ tình, nội tâm rất giàu nhưng ít nói, có nói cũng nhỏ nhẹ. Cái nhìn hồn nhiên tươi tắn nhưng cách cảm cách nghĩ vẫn thấu đáo nhân tình, thâm thúy, lúc nào cũng như giấu một nụ cười cảm thông lặng lẽ với mọi chuyện của cõi người (và cả cõi thần). Thế giới thơ của Nguyễn Nhược Pháp là thế giới của đời thường, người thường, tính nhân bản chân thật nên hóa sâu sắc. Không một tính cách nào trong thơ Nguyễn Nhược Pháp bị mất đi bản tính thực của mình. Đến vua nghĩ chuyện nhân duyên cho con mà cũng: “Vua nghĩ lâu hơn bàn việc nước” và băn khoăn:

Nhưng có một nàng mà hai rể 
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều

Thú vị của câu thơ là ở chữ “hơi nhiều”. Cách dẫn lễ của chàng rể hụt Thủy Tinh hoàn toàn trong tưởng tượng nhưng miêu tả rất sống, vừa đọc lên đã hiện ra trước mắt. Đoàn rước quy mô mà cái thất bại đã thấy rồi:

Theo sau cua đỏ và tôm cá 
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai
Nguyễn Nhược Pháp giỏi dùng chi tiết lắm. Cái oai của Sơn Tinh:

Tay ghì cương hổ, tay cầm lau
Phải có oai thần nên điều khiển hổ dữ chỉ cần một nhành lau. Nếu tay ghì cương hổ, tay cầm côn, bức tranh vẫn hùng dũng nhưng cái oai không còn. Tính cách Mỵ nương hiền dịu, rất phụ nữ Việt Nam mình, thương cha, thương nước, chỉ trong một lời than ngoái lại lúc ra đi: Phụ vương ơi! Phong Châu!

Bài thơ Chùa Hương tả tình, tả cảnh, tả diễn biến tâm trạng cũng tài hoa, nhiều khám phá. Bài thơ đầy tính kịch  và cũng đầy tính thơ mộng. Bài thơ này cùng với Sơn Tinh - Thủy Tinh là hai bài hay nhất của Nguyễn Nhược Pháp và cũng là hai bài góp vào phần tự hào của một giai đoạn văn chương. Chùa Hương có nhiều “xen” tâm lí rất hay của một cô gái mới lớn, lần đầu đến với tình yêu trong khung cảnh kì ảo của đất Phật. Cái tài quan sát lòng người của nhà thơ trẻ này có đầy đủ độ lịch lãm của một cây bút tiểu thuyết, vừa xúc động, vừa vui đùa, tiến lui tung hứng rất khéo léo. Năng khiếu quan sát tâm lý, nắm bắt các biểu hiện phong phú của tâm lý trong từng loại nhân vật, từng loại tính cách đã được ông vận dụng nhiều trong các vở kịch. Kịch, với Nguyễn Nhược Pháp mới là sự bắt đầu. Ông chưa có các vở lớn mang tầm vóc khái quát xã hội. Nhưng lại có ý nghĩa giới thiệu một khuynh hướng kịch nội tâm. Nút thắt nút mở đều nằm trong diễn biến tâm lý nhân vật.  Trở lại với bài thơ Chùa Hương, không gian tâm linh Phật giáo hay thắng cảnh Hương Sơn chỉ là bình diện thứ hai của bài thơ, chỉ như một tấm phông chấm phá làm nền cho diễn biến tâm lý cô bé mới lớn, lần đầu ý thức được sự tồn tại của chính mình và “người ta”. Cô thẹn thùng ngay với cả sự phát hiện ấy. Vừa muốn phô ra lại vừa muốn giấu đi. Mọi thứ xung quanh cô đều như lần đầu xuất hiện. Cô thán phục, cô kinh ngạc nhưng lại thích nương tựa vào những triết lý sự đời quen dùng của thiên hạ để cũng nhận xét, cũng kết luận cho ra dáng người từng trải. Nghe rất “bà cụ non" kiểu như: Mơ xa lại nghĩ gần/ Đời mấy kẻ tri âm. Cô thích thú, reo như trẻ con khi trông thấy khỉ: Bao nhiêu là khỉ ngồi, khi nhận ra dáng núi con voi: Có đủ cả đầu đuôi. Nhưng khi biết chú chàng kia đang đi đằng sau mình thì cô “ý thức" và đã nói ra thành lời cái ý thức ấy. 

Em không dám đi mau 
Ngại chàng chê hấp tấp 
Số gian nan không giàu. 

Ý vị thơ của Nguyễn Nhược Pháp là ở những chỗ ấy. Bài thơ hết rồi mà ý vị còn tràn sang cả câu chú thích: “Thiên kí sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện”. Nội câu chú thích ấy cũng đủ hé cho ta thấy cái tạng cảm xúc của Nguyễn Nhược Pháp: Duyên dáng, hóm hỉnh và sâu sắc.

Nguyễn Nhược Pháp có biệt tài tạo thần thái cho cảnh vật. Ông tả bằng cảm giác, bằng tưởng tượng, giống như trường phái tượng trưng trong hội họa, nên rất giàu sức gợi. Vài nét là đủ dựng lên cái hồn của phong cảnh, tác động vào nhiều giác quan. Cảnh ma quái của giếng Trọng Thủy: gợi từ hình ảnh, từ âm thanh và cả từ âm điệu của câu thơ:

Phơn phớt hồn ma đóm lập lòe 
Cú rúc. Đàn rơi bay tứ bề
Răng rắc kêu như tiếng xương đập
Gió rền, quỷ khóc, lay cành tre
Chưa cần xét đến tình, ý, tư tưởng, sự nắm bắt và tái tạo thiên nhiên ấy chính là dấu hiệu của một năng khiếu thơ ở Nguyễn Nhược Pháp. Có lẽ chính vì vậy mà chỉ mười bài thơ, quá ít ỏi đối với một đời thơ, Nguyễn Nhược Pháp vẫn đủ để ở lại với nền thơ Việt Nam. 
(0) Bình luận
  • Tiếng hát trong vỏ ốc
    Đêm. Run rủi thế nào hai người phụ nữ ấy lại gặp nhau ngay trên bãi cát. Biển về khuya vắng lặng. Những cặp tình nhân thậm chí cũng đã rời đi vì gió trời bắt đầu trở lạnh. Cô đang giẫm lên dấu chân xiêu vẹo của người phụ nữ đi trước mình. Người đàn bà ấy chậm rãi từng bước, dáng đi có phần nghiêng ngả như một kẻ say.
  • Quà trung thu của ba
    Khoa đang rất vui vì lần đầu tiên được cùng ba tự tay làm đồ chơi Trung thu. Những năm trước, cậu cũng có đèn lồng, đầu lân nhưng đều là quà mẹ mua sẵn vì ba phải đi công tác. Năm nay, ba được nghỉ phép, liền rủ Khoa cùng làm đầu lân bằng tre và giấy báo cũ.
  • Đôi mắt xuyên bão
    Buổi sáng đầu thu, gió vương chút lạnh và lá trên hàng sấu trước cửa văn phòng Hương bắt đầu úa vàng. Hương pha một ấm trà sen. Thói quen ấy cô đã giữ suốt bao năm cho dù cô chẳng nghiện.
  • Chuyện người đàn bà
    Chín năm về trước, vào khoảng chiều tối, anh phó công tố viên Py-ốt-tơ-rơ Xia-rơ-dếch và tôi ngồi xe ngựa băng qua đồng cỏ đang mùa phơi để đưa mấy lá thư từ trạm về.
  • Sau bão
    Tiếng ấm đun sôi ùng ục. Chị toan mở nắp, chợt nghe có tiếng bước chân. Lại thế. Bà Thịnh giật lấy quả trứng khỏi tay chị. Bà miết ngón trỏ lên vỏ trứng nhẵn bóng như muốn truyền vào đó một thứ nôn nóng khó tả, rồi đập vỡ bằng cái bực dọc đang hừng hực dâng lên. Chẳng ai được ăn quá hai quả trong tuần. “Mì còn dư, lại muốn trương ra rồi húp?” - bà liếc sắc lẹm, ánh nhìn như lưỡi móc câu thọc thẳng vào miệng cá.
  • Tiếng “tút tút” cuối cùng
    Xóm Tìm nằm nép mình bên dòng sông Trà Lý, nơi bầu trời dường như sà xuống thấp hơn, và mùi bùn non cứ thế quyện vào hơi thở, vào máu thịt của những người dân lam lũ. Ở cái xóm nhỏ ven đê này, mỗi buổi sáng, vào lúc sáu giờ, một chuỗi âm thanh quen thuộc “tút tút…” lại vang lên từ chiếc loa truyền thanh của xã đặt trên đỉnh cột làm từ một cây xoan già.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Chương trình nghệ thuật “Thanh âm Đất Việt”: Sức sống của nhạc cụ truyền thống
    Tối 7/12, tại sân khấu Vườn hoa Vạn Xuân (phường Ba Đình, Hà Nội), chương trình nghệ thuật “Thanh âm Đất Việt” đã được tổ chức và ghi hình trong khuôn khổ dự án “Giới thiệu Cây đàn bầu Việt Nam - nhạc cụ dân tộc truyền thống với các làn điệu dân ca Việt Nam năm 2025”.
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • “Tấu khúc lưỡng cực”: Đêm nhạc giao thoa văn hóa Việt - Đức
    Trong hai ngày 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm sẽ diễn ra chương trình hòa nhạc “Tấu khúc lưỡng cực - A Rhapsody of Two Worlds” do Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức. Sự kiện mang ý nghĩa đặc biệt nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức.
  • Phường Tây Hồ: Phát huy lợi thế xứng tầm với những tiềm năng sẵn có
    Chiều 7/12, Đoàn giám sát số 9 của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội do Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam thành phố Hà Nội Bùi Huyền Mai làm trưởng đoàn đã có buổi giám sát tại phường Tây Hồ.
  • Hơn 23.000 bước chân cùng viết nên nhịp sống vượt trội
    Với hơn 23.000 vận động viên đến từ 81 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng trên 30% so với năm trước – mức tăng cao nhất trong lịch sử giải, Giải Marathon Quốc tế TP.HCM Techcombank mùa thứ 8 đã khép lại trong không khí bùng nổ, không chỉ xác lập kỷ lục về quy mô mà còn khẳng định vị thế của TP.HCM như một trung tâm du lịch – thể thao cộng đồng hàng đầu khu vực.
Đừng bỏ lỡ
Nguyễn Nhược Pháp: “Ngày xưa”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO