Mão hay Mẹo là từ Hán Việt chỉ tứ 4 12 chi. Mão cũng dùng để chỉ thời gian, từ 5 giử đến 7 giử sáng hay tháng hai, và chỉ phương đông trong không gian. Theo thiên văn cổ Trung Hoa mèo rất gần với đời sống dân ta qua những thà nh ngữ hay ca dao tục ngữ như: Mèo tha miếng thịt xôn xao/ Kễnh tha con lợn thì nà o thấy chi.
Câu nà y có hình ảnh 3 con vật cũng là biểu tượng cho 3 chi thuộc 12 con giáp, ngoà i ra câu nà y còn cho thấy tính ích kỷ của con người. Mèo được nuôi ở khắp nơi trong nước, ngoà i ra còn có nhiửu loại mèo hoang. Ở nông thôn, người ta thường chôn mèo chết dưới gốc cây khế chua, cho rằng như vậy sẽ là m cho khế ngọt.
Chuyện Mèo Chuột hiểu theo cách bình dân trong đời sống hằng ngà y, thì cũng là chuyện đầy hà i hước: Chú mèo mà trèo cây cau/ Hửi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà ?/ Chú chuột đi chợ đường xa/ Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo(!). Cùng với chó, mèo là vật nuôi gần gũi nhất với người dân Việt nên có nhiửu ca dao, tục ngữ mượn con vật nà y để nói lên sự đời, kinh nghiệm sống, khen chê hay dở: Tử ra thèm thuồng, háo hức một cách quá lộ liễu: Như mèo thấy mỡ. Ngoà i ra người ta còn liên tưởng ngay tới chuyện trai gái, mèo mỡ, vì từ xưa, ông bà mình cũng đã diễn tả sự thu hút lẫn nhau giữa nam và nữ. Cảnh giác đử phòng, đối phó với các thủ đoạn trộm cắp: Chó treo, mèo đậy.
Tình huống trớ trêu, giữa đám đông khác giới mà vẫn phải cô đơn: Cơm treo, mèo nhịn đói. Hoặc ví với hạng người lăng nhăng, sống đầu đường, xó chợ, ăn chơi đà ng điếm, không có nhân cách, đáng khinh: Mèo mả gà đồng, Mèo đà ng chó điếm. Tình yêu, bè bạn sớm nắng chiửu mưa, hay cãi nhau, bất hòa: Yêu nhau như chó với mèo. Mỉa mai những kẻ tự đử cao mình nhưng cũng chẳng tà i cán gì Mèo khen mèo dà i đuôi. Cười châm biếm cho trường hợp gặp may bất ngử đạt được cái hoà n toà n ngoà i khả năng của mình: Mèo mù vớ cá rán.
Còn người có tính cẩu thả, hời hợt, là m việc ẩu, không đến nơi đến chốn thì được minh họa: Rửa mặt như mèo. Ca dao cũng lên án những người ăn thì nhiửu, nói năng hùng hồn, nhưng khi là m thì chây lười: Đ‚n rồng cuốn, nói rồng leo, là m mèo mửa. Trong cách ăn uống hà ng ngà y các cụ ta xưa cũng dạy: Đ‚n nhử nhẻ như mèo Là ăn từ tốn, từng miếng một . Phụ nữ ăn nhử nhẻ được khen là có nết. Nhưng đà n ông ăn như mèo thì bị chê bai.
Buộc cổ mèo, treo cổ chó: Nói kẻ hà tiện, có tính bủn xỉn. Chẳng biết meo nà o cắn mỉu nà o: (Mỉu: do tiếng miu là mèo đọc chệch ra) nghĩa bóng nói rằng mỗi người đửu có sở trường riêng của người ấy, chưa chăc ai đã hơn ai. Ai cũng có nghử nghiệp chuyên môn của mình, đừng tị nạnh nhau, và cũng đừng can thiệp và o việc của nhau: Chó giữ nhà , mèo bắt chuột. Chó chê mèo lắm lông: Phê phán kẻ không thấy lỗi mình, mà chỉ thấy lỗi người.
Chó khô, mèo lạc: Chê hạng người không có tà i năng. Chó tha đi, mèo tha lại: Nói những vật vô giá trị bử lăn lóc chẳng ai thèm lấy. Chó treo, mèo đậy: Thức ăn treo cao để tránh chó ăn, và đậy kử¹ để không cho mèo lục đớp. à khuyên cảnh giác cửa nẻo rương hòm để phòng trộm. Khi lâm và o cảnh khổ thì mới biết thương người không may mắn bằng mình: Có ăn nhạt mới thương tời mèo.
Là m ơn cho kẻ có thể hại mình, có ngà y mang họa: Chuột cắn dây buộc mèo. Không nên là m một việc liửu lĩnh, nguy hiểm: Chuột gặm chân mèo. Chửi chó mắng mèo: Tử vẻ tức giận người khác bằng cách chửi mắng vu vơ. Đá mèo, quèo chó: Bực mình người khác nhưng lại trút và o những con vật nuôi trong nhà . Giấu như mèo giấu cứt: Chê những người giấu giếm thứ gì, điửu gì đó quá ư là kử¹. Hùm mất hươu mèo mất thịt: Cà ng mất quyửn lợi ở địa vị cao thì cà ng đau khổ hơn người ở địa vị thấp.
Im ỉm như mèo ăn vụng: àm chỉ những kẻ cố tình che giấu tội lỗi bằng cách im lặng tuyệt đối, hoặc những kẻ hễ thấy lợi là giấu giếm hưởng một mình, không cho ai hay biết. Không có chó bắt mèo ăn cứt: Phải dùng một người trong một việc không đúng với sở trường, khả năng của người đó. Lèo nhèo như mèo vật đống rơm: Nói dai, nói đi nói lại để nà i xin.
Lôi thôi như mèo sổ chuột: (Sổ: là m sẩy mất) chỉ sự thẫn thử, ngơ ngác của người đang tiếc rẻ, vì trót bử lỡ một dịp may nà o đó. Mèo cà o không xẻ vách vôi: Ngụ ý khuyên trước khi là m việc gì phải tự lượng sức mình, cố gắng cho lắm cũng vô ích. Mèo con bắt chuột cống: Chỉ người trẻ tuổi tà i cao, là m được việc mà nhiửu người lớn là m không nổi. Mèo vật đụn rơm: Chỉ kẻ tà i thô trí thiển mà muốn cáng đáng việc lớn lao quá sức mình, không đúng với khả năng cho phép.
Tiu nghỉu như mèo cắt tai: à nói vì thất vọng nên buồn rầu lắm, không muốn nói năng, không muốn là m gì. Rình như mèo rình chuột: Sự kiên nhẫn, siêng năng cho đến khi được việc mới thôi. Vợ quá chiửu ngoen ngoẻn như chó con liếm mặt; vợ phải rẫy tiu nghỉu như mèo là nh mất tai: Khuyên các đấng ông chồng không nên nuông chiửu vợ quá, mà cũng không nên hiếp đáp quá. Nuông chiửu thì vợ lửn mặt, lâu dần sẽ lấn áp quyửn chồng. Còn hiếp đáp thì vợ buồn rầu, gia đình mất hòa khí, mất hạnh phúc.
Qua mấy câu ca dao tục ngữ trên mới hay rằng cha ông chúng ta đã gần gũi với các chú mèo từ lâu lắm rồi. Nhân năm Tân Mão, xin có đôi câu tục ngữ, thà nh ngữ và ca dao có Mèo hiện diện để bạn đọc hiểu thêm vử nguồn ca dao tục ngữ đầy sinh động của nhân dân ta và để biết mèo không chỉ có công diệt chuột, mà còn là m phong phú thêm kho tà ng ngôn ngữ của người dân Việt.