“Cố giấu em về phía lặng yên”
(Đọc "Dốc im lặng", thơ Trần Thắng, Nxb Văn Học, 2023)
Cuốn sách "Dốc im lặng" của hoạ sĩ Trần Thắng gồm 55 bài thơ, 32 phụ bản là những cảm xúc được xâu chuỗi kỳ công, sống động và đầy mĩ cảm. Những gì lẩn khuất, thầm lặng bên trong hoạ sĩ Trần Thắng đã lộ diện. Sau những cơn "bĩ cực" của cảm xúc, Trần Thắng đã tới gần hơn với cuộc chơi đầy màu sắc của văn chương.
Nhớ
Nhớ là phản xạ có điều kiện, xảy ra khi chúng ta nảy sinh tình cảm với đất và người ở những nơi đã từng gắn bó. Nơi nào cái nhau, cái rốn theo lá hóa mùn vào đất thì nơi đó sẽ cho chúng ta nỗi nhớ về một tuổi thơ trong veo, nếp làng hồn hậu, cả nỗi rưng rưng mỗi khi nhớ về những mùa giáp hạt: “Con bói cá tung từng vệt xanh đỏ/ đóng dấu chiều nắng oi/ tôi len vào làn nước mát/ đàn cá thầu dầu lượn qua kẽ tay” (Sông chân trời). “Người nông phu già rút rơm nhen lửa/ mắt cay nhòe” (Tháng Mười quê). “Làng quê sỏi đá triền miên bão lốc/ người sinh ra như hạt nảy mầm.../ năm lũ quét mùa màng thất bát/ đùm nhau vạt áo diềm bâu” (Đất và quê).
Những ký ức ùa về dào dạt như gió sông thổi vào làng buổi hoàng hôn đẫm nắng. Thời gian nếu một lần trở lại thì những câu thơ sẽ hóa mục dưới gốc chuối mọc hoang ở rìa làng. Ai rồi cũng sẽ phải mồ côi, nỗi mồ côi của Trần Thắng nhẹ như buông mà dằn nén lại, đeo đá vào người: “Lá buông về cội giấc vàng/ Mong manh gió lật trắng tang kiếp người”; “Cả đời mẹ hứng liêu xiêu/ Mong con thẳng thớm giữa điều ngả nghiêng”; “Ngủ trong một tiếng lá rơi/ Chợt lìa hai cõi mẹ ơi! Vô thường”. Và thế là: “Từ nay nhòa nhạt nẻo quê/ Từ nay con lớn dãi dề mồ côi” (Buông).
Khi người đàn ông suy sụp vì thiếu hơi ấm của mẹ, “thơ” xuất hiện như một “cái ôm” để chạm tới nơi âm thầm nhất của nỗi nhớ. Nhạc sĩ Trần Tiến gọi mẹ trong khắc khoải: “Mẹ ơi con đã già rồi/ Con ngồi nhớ mẹ khóc như trẻ con” (Mẹ tôi). Còn Trần Thắng thì khôn khuây trong cả giấc mơ: “Sao trong mơ cha mẹ chẳng nói gì/ Con đuổi theo cháy bùng quần áo giấy” (Vu Lan).
Nỗi nhớ ấy cứ lặng lẽ theo ta để nhắc nhớ về những ngày tháng cũ, về những miền đất đã in dấu chân dù chỉ một lần. “Nỗi nhớ em gửi vào ghềnh thác/ Dữ dội sao rất dễ mềm lòng/ Em nghiêng mắt, ta như cài trên sóng/ Sông Lô êm đềm cuồn cuộn lũ trong ta” (Khắc khoải thành Tuyên).
Nhớ được Trần Thắng viết trong trạng thái thành khẩn, tình tự nhất của cảm xúc. Nỗi nhớ ấy của riêng anh và rồi chẳng còn là của riêng ai...
Say
Rượu không phải là tác giả của những bài thơ giàn giụa cảm xúc. Rượu là chất dẫn cho cảm xúc cháy bùng lên, vỡ ra, những câu thơ tuôn ra để bầu bạn, để vắt kiệt cái đầu bạc trắng: “May rủi chỉ là mây gió/ điều muốn nói lây phây ngang mặt/ điều chôn kín bắt tay thành nông nổi/ điều xa xăm bật nhớ bỗng quên/ cười nghiêng ngả rượu cay bay... bay...” (Tri kỷ).
Ai đã gặp đều muốn biết nhiều hơn về Trần Thắng. “Làm bạn với Trần Thắng vừa dễ, vừa khó nhưng khi đã trở thành bạn đúng nghĩa thì Thắng không nề hà, đắn đo hay suy tính. Thắng luôn vì bạn, chiều bạn, hết lòng với bạn”, một người bạn đã nói về Trần Thắng như thế. Và ngay thơ anh cũng đã lý giải tại sao anh lại có nhiều bạn: “Chén này tiền bạc tan thành khói/ Chung này tham vọng hoá thành mây/ Ly này bỗng ta là cát bụi/ Nhớ bạn quay về lối nhân gian” (Bạn nhậu).
Ở cái tuổi “dường như chạm được vào tĩnh lặng/ Giông bão đâu dễ gì cuốn xô” (Vô thường), kẻ "bạc đầu" biết được cái "vô thường" của nhân thế để nắm, để buông; hiểu được cái khổ của "vô minh" để nội tâm thêm vững chãi. Và biết rõ mình là ai, mình cần những gì: “Vĩnh hằng một chốn xa xanh/ Vô thường ngọn gió thổi quanh cõi người/ Thân như cá bể chim trời/ Hồn như mây khói muôn nơi là nhà (Trăng xanh).
Thơ và họa của Trần Thắng mang đậm triết lý nhân sinh của Phật giáo. Mỗi sáng tác đều thể hiện lối chơi, dấu ấn cá nhân và tâm niệm sống của anh.
Thích Nhất Hạnh có câu: “Chẳng biết rong chơi miền tịnh độ, làm người một kiếp cũng như không”. Tiêu hao cảm xúc cho nghệ thuật, tìm kiếm tự do trong tâm hồn, yêu và được yêu chính là cách Trần Thắng rong chơi, giác ngộ và hưởng thụ.
Đau
Văn sĩ thời nào mà chẳng đau đời. Đau đời vì lòng trắc ẩn. Đau đời vì những điều đập vào mắt, va vào tai không thể dửng dưng. “Đất và quê” là một trong những "cơn đau" dài của Trần Thắng trước số phận của đất và người. Đất thì muôn đời vẫn thế, chất phác như cái thuở còn "đoán gió bấc nhẩm ngày đụng lợn" chỉ có con người vì nóng lòng thay đổi mà ngày càng trở nên xa lạ:
“Mùi dòng sông cá chết/ mùi đen ngòm nước thải/ mùi đường làng bê tông hập nóng/ mùi thuốc trừ sâu trên mồ hôi trên tóc/ mùi phân trâu thưa thớt cánh đồng/ mùi khói đốt rác lẫn trong ăn ngủ.../ Văng vẳng nhạc chế dỗ con vào giấc/ người mẹ gật gà quên mất lời ru”.
Tôi đồng ý với Aldous Huxley rằng: “Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm bất cứ điều gì không? Nghệ thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời”.
Trần Thắng dùng âm thanh để dẫn dắt nỗi đau, tiêu trừ nó bằng cách gửi vào “Hành trình của những nốt nhạc” và có một điều ước: “Bên trời vẫn một vầng trăng/ Người đô thị vẫn dùng dằng hồn quê/ Ngột ngạt nhầy nhụa cơn mê/ Ước ao tìm lại lối về rạ rơm” (Người đô thị).
Cái "lối về rạ rơm" mà Trần Thắng khao khát thật ra vẫn còn chỉ là nếp làng mai một, lối về đó rất có thể sẽ chỉ là một niềm ước ao xa xỉ. Giấc mơ sẽ bị "bê tông hoá" như sự biến mất của cỏ, cào cào và nhái bén trên những cánh đồng tím ngắt cỏ may.
Yêu
Đàn ông dù sắt đá tới đâu thì vẫn là một "kim loại" có linh hồn, họ nhạy cảm như việc dùng thơ để kể với Chúa về mối tình thầm lặng của mình, cầu mong một sự cứu rỗi. Khi một thi sĩ ngừng yêu điều đó có nghĩa anh ta đã làm phẫu thuật để cắt bỏ đi trái tim, thay vào đó là một dụng cụ để co bóp, duy trì sự thở.
Có nỗi yêu nào khốc liệt hơn việc phải thốt lên: “Nhẹ nhàng thôi tim trót đau rồi” (Đoản khúc nhớ). Tình yêu ấy không giống một quả bom đợi kích hoạt, cũng không phải bị em giặt là rồi đem lên phơi phóng... Mà "Em trở về xăm nốt nhạc lên tôi" (Đoản khúc nhớ), trên ngực tôi em đã "xăm" âm thanh của sự sống để rồi giai điệu đó sẽ theo tôi, ám ảnh tôi suốt cả một đời.
Kiệm lời và lý trí nhưng khi chẳng thể kìm nén sẽ bất chấp tất cả để yêu: “Đã yêu cần gì hối hận/ cuối đường chắc gì đã cùng nhau” (Cúc họa mi). Hợp tan trong đời là tùy duyên, đến rồi đi chuyện của vô thường. Phải chăng, khi yêu đừng ai tỉnh táo quá, hãy thử một lần trong đời yêu đến "tẩy xóa" xem rốt cuộc tình yêu có màu gì?
Yêu để rồi thảng thốt gọi em giữa mùa yêu của vạn vật: “Em thoát áo tan vào nắng sớm/ tôi gọi đến rồ dại Giêng Hai” (Giêng Hai), “Gió mùa lỗi nhịp hanh môi/ nước mắt em lem màu ta vẽ/ chơm chớp dìm thời gian chết lịm/ vò võ một đời hủy diệt tái sinh?” (Hóa thân). Em đã ở đâu sau những ngày đằng đẵng. Tháng năm vô hình, mình cho nhau có được gì đâu. Chỉ khói thuốc rơi dài trong đêm vắng, buông tách trà luẩn quẩn, loanh quanh.
“Sao bây giờ mới gặp nhau?” (Khởi nguyên). Hỏi mà như trách con tạo đã can dự vào số phận của tình yêu? Sau những bã bời, cuồng nộ của "Rượu - lửa và em", anh trở về với chiếc ly im lặng. Dốc hết, cạn hết để một mình đối diện với cái hư hao, côi cút của mùa thu: “Lại dừng chân la cà góc phố/ đọt nắng vỡ thềm vàng gió lá/ thời gian đi khoanh tròn khuôn mặt/ hương đắng nhạc đọng đáy ly” (Hương đắng).
Mùa thu giấu mưa ngâu vào thảm lá, anh "cố giấu em về phía lặng yên". Nơi ấy, có thể là một ngôi làng ở núi đá hoang vu hoặc dưới vực sâu của chân tóc. Ngỡ “giấu” em đi thì sẽ bớt trơ trọi, xói lở nhưng không, "âm thầm ngực càng nhức”, rồi càng chà xát nỗi nhớ bằng những truy vấn: “thổn thức từng giọt chậm rơi/ cà phê hay là nước mắt/ sao nỗi nhớ lại đau/ sao xa nhau lại đắng”…
Khi yêu, Trần Thắng rơi vào hai trạng thái: bốc cháy và thu mình về yên lặng. Dù ấm hay lạnh, kín đáo hay cuồng nhiệt thì cái tôi trữ tình, chất men yêu của một thi sĩ luôn sục sôi trong một tâm hồn rất trẻ.
Lời không thể nói ra, lời vận vào thơ thì càng mãnh liệt, thét gào. 18 bài thơ tình là 18 khoảng trời yêu. Để rồi cuối cùng, Trần Thắng chọn cách trở về với khoảng lặng của riêng mình, nơi chưa ai đặt chân tới. "Cố giấu em về phía lặng yên" là cách neo giữ tình yêu đầy ý nhị, tinh tế và nơi ấy cũng chính là nơi âm thầm bùng lên những róng riết, những khát khao.
Nhớ, say, đau, yêu hay bất cứ trạng thái nào của cảm xúc đều sẽ đưa người nghệ sĩ tới với sáng tạo nghệ thuật. Khi cảm xúc được khai phóng, thơ cùng nhiệt huyết sẽ tiếp tục cháy và như Lawrence Ferlinghetti đã nói: "Tôi không biết họa sĩ nào hay nhà văn nào lại nghỉ hưu. Họ giống như những người lính họ chỉ ra đi".
Với những gì đã thể hiện, tôi tin Trần Thắng sẽ tiếp tục “rong chơi”, gặt hái nhiều thành tựu trong nghệ thuật cả về thi ca và hội họa./.
Trần Thắng sinh năm 1971, quê Nam Định. Anh tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Công nghiệp và là họa sĩ của Báo Ảnh Dân tộc Miền Núi (TTXVN). Các tác phẩm của anh đã được xuất bản như: tập thơ “Kẻ Bắc người Nam” (Nxb Thanh Niên, 2005); 2 tập thơ in chung “Thơ Chọn lọc Quán Chiêu Văn” (Nxb Văn học, 2019) và “Ngày qua còn mãi” (Nxb Văn học, 2020); tập thơ “Dốc im lặng” (Nxb Hội Nhà văn, 2023).