Tâm hồn học trò và cõi lòng đắm đuối
Hoàng Nhuận Cầm dừng bút ở tuổi 69 (7/2/1952– 20/4/2021). Ông sinh và mất đều ở Hà Nội. Về thơ, ông có nửa thế kỷ cầm bút, để lại hai mảng thơ xuất sắc: thơ chiến đấu và thơ tình yêu ứng với hai chặng đời bộ đội và khi đã ra quân, trở lại trường đại học và làm trong ngành điện ảnh. Đặc điểm của thơ Cầm là chất tâm hồn học sinh và cõi lòng đắm đuối, rất tài hoa.
Riêng tôi, tôi vẫn chờ ở Hoàng Nhuận Cầm chặng thơ thế sự nhiều từng trải và giọng thơ chắc sẽ thâm trầm hơn, như bước phát triển chung của các nhà thơ xuất hiện trong chiến tranh kháng Mỹ. Ông mất đột ngột. Càng đột ngột trong sự chờ đợi ấy. Trong niềm sửng sốt của bạn viết và bạn đọc có nỗi tiếc thương thấm thía. Ông chưa sống hết cái phần ông được sống, chưa viết hết những điều ông cần viết - những bài thơ khai sinh một chặng mới mà bạn đọc mê đắm thơ ông đang lặng lẽ chờ ông.
Thơ kháng chiến
Bút danh và cũng là tên thật Hoàng Nhuận Cầm được trình làng đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ Quân đội tháng 1/1972, với ba bài thơ “Bức tranh dọc đường hành quân”, “Đêm khuya nói chuyện với Andersen” và “Mùa thu tôi yêu”. Ba bài khá kết nhau trong một giọng tâm hồn trẻ trung tươi tắn. Khi ấy Cầm mới một tuổi quân. Trước đó ba bốn năm, khi còn đi học, Hoàng Nhuận Cầm đã có thơ đăng báo với bút danh Ánh Biếc, thơ khi ấy chưa rõ phong cách.
Các cuộc thi thơ những năm đầu chiến tranh chống Mỹ trên báo Văn nghệ đã nhanh chóng phát hiện những tài năng thơ bộ đội đang chiến đấu, Cuộc thi 1969-1970, giải Nhất thuộc về Phạm Tiến Duật, bộ đội Trường Sơn. Cuộc thi liền sau đó 1972-1973, trao bốn giải Nhất: ba là bộ đội đang ở chiến trường B, trong đó có Hoàng Nhuận Cầm và bốn là một cô gái ở vùng “cán xoong" ác liệt Quảng Bình. Thơ Hoàng Nhuận Cầm bổ sung cho thơ kháng chiến chúng ta lúc đó một phong vị trẻ, tươi, nhìn chiến trường bằng cái nhìn thơ mộng, đẹp như trong cổ tích:
Những cây nấm nâu màu nâu già
Tự dưng thức dậy bên vòm lá
Những bông hoa chửa có lên hoa
Bỗng nhiên mở cánh ra nghe ngóng
Hoàng Nhuận Cầm không dùng những nét dữ dội để vẽ cái dữ dội của cuộc chiến. Anh quen dùng những nét mềm, những đường viền rất mảnh, mơ mộng để tả chiến trường. Thực tế cuộc sống dữ dội đạn bom hơi lùi xa, nhường chỗ cho một tâm hồn học trò yêu thương đất nước, đảm nhiệm cuộc chiến bằng thứ trí tuệ lặn sâu vào tâm hồn:
Nếu được chết cho quê hương, con sẽ chết như bạn bè con thế đấy, với câu Kiều trên miệng súng trên tay.
Cảm xúc Hoàng Nhuận Cầm non tơ và tinh nhạy. Trong tâm hồn anh, chất liệu đời sống hòa trộn với chất liệu rút ra từ sách vở nhà trường. Các anh bộ đội hành quân qua Đèo Ngang, ai cũng bâng khuâng một nỗi niềm thương nước. Nỗi niềm ấy bắt nguồn từ câu thơ bà huyện Thanh Quan học ở trường trung học. Từ “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc” mà vang vọng sang thơ Cầm: “Tiếng kêu con cuốc chạy về quả tim”. Lớp bộ đội trẻ thời kháng Pháp chưa có được sự cộng hưởng ấy. Hôm trước buổi tòng quân họ còn lam lũ trên cánh đồng cày thuê gặt mướn hay tối mặt hầu hạ trong nhà địa chủ, họ đâu biết Andersen hay thơ bà Thanh Quan. Anh bộ đội Hoàng Nhuận Cầm, nhà ở phố cổ Hàng Bạc Hà Nội, hình như có mê đắm hơi lâu những trò chơi thuở quàng khăn đỏ. Viên bi ve đành rằng đã lăn hết vòng tuổi nhỏ nhưng hình như trong đáy ba lô hành quân vẫn ri rỉ tiếng chú ve kim. Nhà thơ Xuân Diệu trong ban giám khảo cuộc thi thơ đã hào hứng reo lên khi nhận ra chất tâm hồn tươi xanh ấy của anh bộ đội rồi lại ngồi lặng nghĩ ngợi: Hình như quân đội ta càng trưởng thành thì tâm hồn lính càng mơ mộng và trẻ thơ.
Hoài niệm thời đi học là một tình cảm phổ biến của mọi người, nhất là khi ta mới rời ghế nhà trường. Nhưng ở Hoàng Nhuận Cầm, tần số và cường độ những cơn hoài niệm ấy đều cao và nhất là, điều này đáng nói, chúng gợi cảm hứng cho anh nhiều nhất. Những câu thơ hay thường thoát thai từ đấy, tạo nên vị trữ tình riêng, độc đáo ở thơ Cầm. Ngay khi vào tuổi lớn anh vẫn đắm đuối và gợi cảm với mạch cảm xúc ấy, với cách nói ấy. Đọc thơ chiến tranh của Hoàng Nhuận Cầm ta ít thấy sự kiện nhưng lại gặp rất nhiều chất liệu của tâm hồn. Xin lấy ngẫu nhiên mấy câu đầu bài “Phương ấy”:
Đêm trong suốt áp ngực vào phương ấy
Gặp lại mùi cỏ cháy suốt thời trai
Ngôi sao rơi trên dây kẽm gai dài
Cái vùng đất không tiếng gà cất gáy
Bao hăng nồng cỏ cháy rát hoàng hôn
Câu thơ hay nhất, tự trội lên tạo không khí cho cả đoạn là câu thứ hai. Câu đầu có thoáng chút siêu thực, tác động bằng ấn tượng. Câu cuối chỉ tô đậm thêm cái vị không gian của câu thơ chủ lực: mùi cỏ cháy. Hai câu tả thực, có chất liệu cụ thể: dây kẽm gai và không một tiếng gà trên cả vùng đất rộng, thì lại ít tác động vào giác quan nhất, đọc xong quên ngay. Nhưng mùi cỏ cháy suốt thời trai thì nhớ. Nhưng chỉ như thế thì chưa thấy được cái diện mạo của chiến trường phương ấy. Chỗ này là chỗ thơ Cầm lúng túng. Anh phải dùng tự sự mà kể. Kể mãi, dài rồi 33 câu rồi, mà thơ, hình như, vẫn chưa đến chỗ cần phải đến, thì cũng đành khép lại.
Tôi nghĩ thế mạnh của Hoàng Nhuận Cầm là nắm bắt và thể hiện tâm trạng, thì anh nên tự tin mà trau dồi và tận dụng nó. Trong đánh giá tác phẩm quả có lúc chúng ta hơi ngại đụng vào cái món tâm trạng. Nhưng đấy là thứ tâm trạng tháp ngà, xa đời sống. Chứ tâm trạng người giữa chiến trường thì quý lắm chứ. Hiện thực tâm trạng thường có sức phản ánh cao hơn, tinh vi hơn thứ hiện thực chạy theo sự kiện ngoài đời. Không nên bỏ sở trường mà chạy theo sở đoản. Phản ánh sự kiện còn có nhiều nhà thơ khác và báo chí nữa chứ, Cầm không lo. Cái khó, với anh, là ở chỗ tìm ra tâm trạng thể hiện đúng nhất, bản chất nhất tình thế ngoài đời. Chặng sau, chặng thơ tình yêu, Hoàng Nhuận Cầm chủ động hơn nhiều. Bài thơ đến nhanh hơn, liền khối hơn, và người đọc cũng sớm nhận ra hơn cõi lòng anh gửi gắm
Thơ tình yêu
Chặng thơ chiến tranh, thơ Hoàng Nhuận Cầm cũng đã thấp thoáng mạch tình yêu tuổi học trò “Tình yêu nằm trong giàn hoa/ Giấc mơ năm mười sáu tuổi”. Thoáng nhẹ vui và buồn cũng nhẹ thoáng thôi, dù có lúc cứ tưởng… chết. Nhưng đến khi “Tình yêu đến trong đời không báo động” thì thơ không thể trang trí mà xong đâu. Số phận hạnh phúc không chỉ có hai mặt phải trái như trên tờ giấy mà lại như thò lò sáu mặt. Mà mặt nào cũng đủ sóng đủ gió. “Mắt anh nhìn sáu mặt bão mưa giông”. Tình yêu trong thơ Cầm và tình yêu của đời Cầm hẳn khác nhau nhưng với tạng tâm hồn Cầm, chắc có khác cũng không khác nhau nhiều. Ai quen đọc hồi quang thì đọc được đời Cầm trong thơ yêu. Nhưng ở bài viết này chúng ta không đi theo hướng ấy. Ta không đọc đời Cầm mà đọc thơ Cầm trong mảng đề tài tình yêu. Chặng thơ này được viết sau khi tác giả xuất ngũ và trở lại trường đại học (1976) học tiếp chương trình văn khoa bỏ dở từ năm 1971. Chậm 5 năm, Hoàng Nhuận Cầm còn đủ tuổi hòa nhập với lứa sinh viên đang theo học. Dám chắc anh có những bài thơ tình viết như ghi nhật ký. Cái tôi chủ thể nhập một với cái tôi là nhân vật của thơ. Giọng thơ, ngôn ngữ tự nhiên như câu nói thường, nhạc điệu reo vui hình thành từ nghĩa chữ, từ điệp khúc:
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi
Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi
Hò hẹn mãi cuối cùng em đã tới
(...)
Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói
(...)
Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó
Bài thơ 16 câu thì có 4 câu cùng tiết tấu và gần nhau về ý, về nghĩa đây là một sáng kiến của Hoàng Nhuận Cầm: bài thơ như những đợt sóng, ý nghĩa bồi lên nhau mà thành bài. Trong tâm lý tỏ tình, vừa tiến vừa nghe, lối kết cấu này xem ra lợi hại, nói được hết những điều muốn. Anh sử dụng thủ pháp điệp khúc câu này trong khá nhiều bài với khá nhiều biến hóa.
Hoàng Nhuận Cầm tinh tế chọn cách nói thật thà mà trân trọng, có tiến có lùi. Tài lắm! Tự nhiên lắm:
Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ
Gió em vào - nếu chán - gió lại ra
Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó
Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi.
Bài thơ có bốn đoạn. Diễn biến tâm lý chỉ trong bốn bước ngắn đó, lời lẽ học trò trong sáng vu vơ mà đến đích hoàn hảo. Chỉ một người nói mà như thấy diễn biến của hai người. Đúng ra đấy là lời người con trai nói với người con gái, độc giả là người nghe ké. Thơ tình yêu Hoàng Nhuận Cầm bài nào cũng như một cuộc ngỏ lời, nhân vật ở ngôi thứ nhất anh và em ở ngôi thứ hai. Dù có nói về mình, với mình thì cũng cốt giãi bày với người chỉ nghe kia:
Trong một thoáng chợt thấy mình tù tội
Em ơi em, em lại trói anh rồi
Hoàng Nhuận Cầm chọn nhiều vị trí để nhìn hạnh phúc lứa đôi. Vị trí anh quen đứng là ở chỗ thấy mình “tù tội” bị chính em vây nhốt. Anh tìm chứng cớ để tố cáo “cai ngục”, ác nhất là tội thờ ơ, lạnh lùng, không chia sẻ, không đồng điệu:
Em thường hát thường cười khi anh khóc
Anh lặng buồn lặng nhớ lúc em vui
Hoàng Nhuận Cầm là người say đắm. Say tình yêu và say thơ nữa. Trăm lỗi của anh, trăm khổ của anh cũng từ nỗi say này. Anh có trách ai đâu. Có trách là trách thái độ, mà cũng nhẹ nhàng thôi, chứ đâu có trách nguyên nhân. Anh chấp nhận và chịu đựng, kín đáo chịu đựng, lấy thơ mà băng bó vết thương mình, lấy công việc bộn bề mà khuây khỏa. Xin bạn lắng nghe nửa cuối bài thơ “Sông Thương tóc dài”:
Mai đành xa sông Thương thật thương
Mắt nhớ một người, nước in một bóng
Mây trôi một chiều, chim kêu một giọng
Anh một mình - náo động - một mình anh
Hoàng Nhuận Cầm có mấy bài thơ trò chuyện với các con. Anh viết về con chưa nhiều. Nhưng ở mấy bài thơ ấy, nỗi buồn của người cha chân thật lắm, anh nhận lỗi với các con, anh chăm sóc chúng chưa nhiều. Các cháu đọc thơ hẳn thương cha lắm vì chúng biết anh đâu đã có điều kiện chăm sóc chính anh.
Ngoài đời, nhất là khi đọc thơ, Hoàng Nhuận Cầm có những cơn bùng nổ cảm xúc, mọi thứ tình cảm lúc ấy như được kích thêm lên một bậc. Nói, đọc như nhập đồng, hơi điên điên. Nhưng trong thơ tình yêu anh lại có cách nói thu nhỏ cường độ âm thanh. Ở nơi ngã ba những mối tình tan vỡ, lời chia tay ở Cầm thành lời nhận lỗi, lời tự thú, rất thương. Cô ấy tên Vân, nên anh đặt tên bài là “Mây rất thờ ơ” và “Mây cuối trời”. Mở đầu bài “thờ ơ":
Trời xanh màu tự thú
Tóc em thờ ơ bay
Và kết thúc:
Khi mà mình có tội
Mây rất thờ ơ trôi
Thơ tình yêu chiếm tỷ lệ cao nhất trong thơ Cầm. Tình yêu nơi anh cũng nhiều cung bậc, reo hát và buồn thương đều có cả, nhưng lúc nào cũng say đắm. Đắm đuối thì đúng hơn. Thơ chiến tranh là một tâm hồn học sinh. Thơ tình yêu là một nỗi lòng đắm đuối. Hoàng Nhuận Cầm làm thơ không nhiều và cũng chỉ quanh hai đề tài ấy. Và ở cả hai mảng ấy, Hoàng Nhuận Cầm đều được tuổi trẻ, những học sinh, sinh viên, yêu mến và chờ đợi./.
Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt
Ngụy trang công sự xong rồi
Mới hay đồi chốt là đồi lắm chim
Cứ ôm khẩu súng ngồi yên
Lắp thêm băng đạn, còn đêm đấy mà.
Thản nhiên cơn gió chạy qua
Tiếng chim lách chách, gần xa chuyện gì?
Ngây thơ là chuyện chim ri
Khoác lác nhất nhì, chuyện sáo sậu thôi!
Chuyện như nghe ở đâu rồi
Là lời chú vẹt đang ngồi góc kia.
Mạ ơi... đất nước cách chia
Tiếng kêu con quốc chạy về quả tim...
Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng
Nghe lăn tăn những tiếng chim xuống hầm
Yêu chim mà chẳng lên thăm
Bởi vì điểm chốt nên nằm lặng im
Mai rồi cái phút làm quen
Lại là cái phút cùng chim xa rồi:
Là khi xác trực thăng rơi
Là khi xác giặc quanh đồi ngổn ngang...Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi
Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
Bốn cành tàn, ba cánh sắp sửa rơi
Hò hẹn mãi cuối cùng em đã tới
Như cánh chim trong mắt của chân trời
Ta đã chán lời vu vơ, giả dối
Hót lên! dù đau xót một lần thôi.
Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói
Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ
Anh sợ hãi bây giờ anh mới nhớ
Em hay là cơn bão tự ngàn xa.
Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ
Gió em vào - nếu chán - gió lại ra
Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó
Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi...Hoàng Nhuận Cầm