Yến Lan: “Mình suốt đời đi chửa tới nhà”

Vũ Quần Phương| 27/12/2019 11:04

Tên thật là Lâm Thanh Lang. Quê gốc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, Yến Lan làm thơ từ chặng đầu của phong trào Thơ Mới, 1937. Khi ấy ở Bình Định có nhóm bạn trẻ làm thơ khá nổi. Họ kết thân với nhau, gọi là Bàn Thành tứ hữu. Quách Tấn cao tuổi nhất trong nhóm, sinh năm 1910. Hàn Mặc Tử sinh 1912, Yến Lan sinh 1916, ít tuổi nhất là Chế Lan Viên sinh 1920. Đất Bình Định không lớn, nhưng ảnh hưởng của nhóm thơ này, đặc biệt là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, vào nền thơ Việt hiện đại lại không nhỏ.

Yến Lan: “Mình suốt đời đi chửa tới nhà”

Tên thật là Lâm Thanh Lang. Quê gốc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, Yến Lan làm thơ từ chặng đầu của phong trào Thơ Mới, 1937. Khi ấy ở Bình Định có nhóm bạn trẻ làm thơ khá nổi. Họ kết thân với nhau, gọi là Bàn Thành tứ hữu. Quách Tấn cao tuổi nhất trong nhóm, sinh năm 1910. Hàn Mặc Tử sinh 1912, Yến Lan sinh 1916, ít tuổi nhất là Chế Lan Viên sinh 1920. Đất Bình Định không lớn, nhưng ảnh hưởng của nhóm thơ này, đặc biệt là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, vào nền thơ Việt hiện đại lại không nhỏ. 

Với Yến Lan, đóng góp vào giai đoạn thơ trước 1945, thường được nhắc đến ở đơn vị bài, bài Bến My Lăng. Bài thơ được Hoài Thanh tuyển in vào tập Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942 và có mặt trong tập thơ đầu của ông, tập Những ngọn đèn xuất bản năm 1957. My Lăng là một bến đò trong tưởng tượng. Ông lái đò, hẳn là đò ngang, lại có phong thái một ông đạo sĩ, lúc câu cá, lúc đọc sách, uống rượu, ngắm trăng, thổi tiêu và say ngủ giữa trời trăng trong tiếng gọi đò của khách quá giang. Ông khách gọi đò trong cái đêm trăng mung lung ấy, cũng đặc biệt: một chàng kỵ mã, nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly. Tiếng gọi đò hối hả, khẩn thiết làm run rẩy cả ngàn trăng cũng chỉ vì chàng sợ trăng vàng rơi khuất lối. Tình huống ấy, nhân vật ấy đúng là một cơn mơ trong cổ tích. Nó lãng mạn, nó huyền ảo, và giàu sức gợi thẩm mỹ vào cõi mộng của người đọc. Không nên tìm ý nghĩa hiện thực hay tư tưởng tác động xã hội của bài thơ này. Không tìm, vì nó không có. Không có vì nó không thực, nhưng nó đủ lý do để tồn tại. Đó là thơ, là chức năng mộng ảo vốn có của đời thực con người.

Nhiều nhà phê bình nhận xét: thơ Yến Lan không có câu non lép. Tôi nghĩ đó là một nhận xét đúng. Đúng từ những bài viết ở chặng đầu, trước Cách mạng, đến suốt cả đời thơ ông. Bài, thì khi hay, khi xoàng nhưng câu, bao giờ cũng kỹ càng, cẩn trọng. Yến Lan đầu tư công sức vào đơn vị câu. Ông chọn chữ, đổi sắc thái các chất liệu thơ bằng các động từ, ông tác động chất liệu này lên chất liệu kia một cách khác biệt, tạo nên bối cảnh thơ kỳ lạ từ các chi tiết quen. Xin lấy một ví dụ ngẫu nhiên, từ bài Bình Định 1935:

Cây lặng lẽ gượng làm bầy hải đảo
Thuyền bồ câu nghiêng buồm trắng trôi ven
Tăm chiêu mộ nổi trên dòng nước Đạo
Rượu ân tình - Bình Định - xứ lên men

Thơ tả gì? Tả cây, tả thuyền, tả dòng sông. Ờ mà dòng sông hay dòng rượu? Bình Định có rượu Bầu Đá nổi tiếng. Sông mà sớm chiều nổi tăm (tăm chiêu mộ) thì là sông rượu rồi. Mà nếu chưa phải rượu thì ở câu thứ tư nó cũng thành rượu vì cả Bình Định này là xứ lên men. Cây như đảo, thuyền như chim, sông như rượu. Nhưng ông không dùng chữ dễ dãi như tôi vừa dùng. Ông miêu tả bằng cách cho cây gượng làm bầy hải đảo. Chữ bầy cũng là một dấu vết lao động. Ghép thuyền với bồ câu và cho nghiêng cánh. Đấy là phép đan cài tung trên hứng dưới khá tỉ mỉ của Yến Lan. Ông làm mới câu vì ông vốn ham chi tiết. Mỗi câu miêu tả một chi tiết, ngang cấp về ý tưởng ngang cấp về tình cảm. Bài thơ thường bị kéo dài và rất dễ bằng phẳng. Bằng phẳng vì nội lực các câu thơ vốn bằng nhau. Để tránh đơn điệu, ông kỳ hóa chất liệu, sáng tạo chữ, đôi khi cao hơn, sáng tạo cảm giác, tạo nên câu thơ lạ mang cái hay đột xuất giữa mạch thơ đang thường thường bậc trung của toàn bài, trong bài Bình Định 1935 nói trên, bỗng vụt lên:

Trời Bình Định có thương em lẻ chiếc
Em nằm thương xanh biếc của trời buồn

Nhưng sao phải ham chi tiết, ham kể, ham tả. Trước hết là do tạng cảm xúc của từng nhà thơ. Riêng với Yến Lan, tạng mê chi tiết ấy ngay trong thơ trước Cách mạng đã có. Sau này ở chặng thơ viết từ các cuộc đi thực tế sau cuộc đấu tranh tư tưởng Nhân văn giai phẩm, lại càng đậm, tính ghi chép đời sống khá rõ, chắc ông cũng thấy thế nên có bài ông ghi là bút ký thơ. Bài thơ khi ấy, như một báo cáo thu hoạch thực tế. Kể nhiều để thấy thu hoạch nhiều, để thấy cuộc sống mới đã tràn vào tâm hồn nhà thơ đầy chật và phong phú như thế nào. Đây cũng là một kiểu đánh giá thơ hồi ấy. Yến Lan, thương điểu kinh cung, ông hạn chế bộc lộ riêng tư để chuyển tải đời sống mới:

Những hồi kẻng vang lừng thôn hợp tác
Những mái nhà ngói đỏ cả lùm tre
(...) Bè gỗ thuyền câu kín giàn mặt nước
(...) Chở nụ cười quê lên giàn giáo công trường

Là một nhà thơ tài năng, ông biết sở đoản của lối thơ kể việc nên dựa vào sở trường của mình, ông nâng cấp nó. Ông đầu tư công sức vào câu để lạ hóa, để kỳ hóa nó. Đó là một sáng kiến, một ưu điểm nữa, khi nền thơ chúng ta đang dễ dãi về câu (Lục cục lào cào/ Anh cuốc em cuốc/ Đá lở đất nhào/ Nào anh bên trai/ Nào em bên nữ/ Ta thi nhau thử/ Ai tài hơn ai). Nhưng sa vào câu mà quên mất bài thì lại là nhược điểm. Yến Lan đây đó cũng vấp nhược điểm ấy. Tôi coi đấy như sự trả giá để có những thành tựu mà ông đạt được: những Mùa xuân lên cao, Theo gió xuân lên biên giới, Bài ca hợp tác thôn tôi... Ở những bài thơ này, câu thơ không chỉ tinh xảo trong miêu tả thực tế mà ông đã ảo hóa chúng ngay trong khâu thu nhận nghĩa là cảm xúc ông đã nhập chúng vào thế giới thẩm mỹ mơ mộng của tâm hồn. Chi tiết là hiện thực (chỗ xuất phát) nhưng tác động vào bạn đọc (chỗ đến) lại do yếu tố phi thực. Trong bài Mùa xuân lên cao, đoạn đầu ông tạo ấn tượng, rất thực mà cũng rất gợi:

Mới nghe đã sợ
Những tên chẳng hiền
Trái Hút, Mậu A, Ngòi Hóp
Tên như tên của hang beo hốc cọp
Bóng ma theo gót thày then
Sâu quảng sùi lên
Biệt kích còn moi sào huyệt
Lưỡi lê chọc tiết 
Chặn đường thổ phỉ cướp xe
Đoạn giữa, một cơn say trùng điệp:

Ta qua những làng/ Máng rủ suối sang/ Chàm ngâm tím vại/ Trâu kéo gỗ về sông Yên Bái/ Bến Âu Lâu thóc trẩy sáng đò/ Ta đứng trên những nương ngô/ Phấn bay giếng nước/ Giàn su quả dày/  Vườn cam quả sây/ Cam hay chim nở/ Cam hay em nhỏ/ Trên cành múa lay/ Cam hay má đỏ/ Tay sờ mát tay.

Đoạn cuối, thực ảo biến hóa tài tình, dào dạt:

Tay ai dắt ngựa ra phiên tết/ Năm cũ người Mèo mai trẩy hết/ Năm mới về theo điệu khèn (...) Ta mang miền ngược về thành phố/ Miền ngược nằm trong những búp đào.

Bài thơ viết tháng Giêng năm 1958, ngay sau cuộc đấu tranh tư tưởng mà đối với Yến Lan không phải không nặng nề. Có được mạch cảm xúc thênh thênh thơ mộng ấy là một bản lĩnh thi sĩ, một biểu hiện tài năng đáng khâm phục. Bài thơ hay trong ý, trong tình, trong nhịp điệu. Câu thơ dài ngắn xuống lên như tiếng reo, tiếng hát hòa quyện ngoại cảnh với hồn người, tung tẩy xa rộng, thênh thang, đầy chủ động.

Bài ca Hợp tác thôn tôi  là một nhập cuộc tiêu biểu của nhà thơ, rộng hơn của người trí thức với bà con cày cuốc chân lấm tay bùn. Chúng ta từng khâm phục cụ Tam Nguyên Nguyễn Khuyến đã bấm ngón trên bàn tay tiến sĩ tính liệu với bà con lam lũ thôn Bùi:

Quanh năm làm ruộng vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò

Nay thấy Yến Lan lấn nước chân chiêm, ngã mềm chân hóa ông sử dụng lời ăn tiếng nói nông dân, ông nhìn làng xóm ruộng đồng bằng cái nhìn của người cùng hai sương một nắng:

Tre khép chuồng bèo - trâu nhai bóng mát
Ta đi nhổ cói dệt chiếu ta ngồi
Rót ấm chè tươi mời đón thêm người
Ta bàn chuyện đan nia, phất quạt.

Bút pháp mạch thơ này, tôi có cảm giác nó không dính dáng với Bến My lăng mộng ảo mà có lẽ nó là bước phát triển của khuynh hướng hiện thực từ Lại về tỉnh nhỏ. Lại về tỉnh nhỏ viết năm 1956, nó là một nhịp lạ tài hoa giữa giàn thơ ca khi ấy. Lạ, trong cách cảm nhận thực tại: cảm vào lõi của hiện thực, nắm bắt được cả phần hồn hư ảo của hiện thực. Lạ, trong thể hiện: một ngôn ngữ sáng rõ, rành mạch, mà lại giàu sức gợi, dẫn tưởng tượng người đọc đi rất xa. Âm điệu cũng tạo nên nội dung, cái cuộc sống cũ kỹ, ngưng đọng, chỏng chơ, rơi rụng của tỉnh lẻ thời Pháp thuộc hiện rõ chỉ trong tám chữ rơi trên bốn bậc thơ này:

Tỉnh nhỏ 
             Cô em
                        Nằm xem 
                                       kiếm hiệp

Cuộc sống mới sau ngày giải phóng miền Bắc, ở đoạn sau bài thơ, được tác giả đặc tả với khá nhiều chi tiết, tuy tỷ trọng ấn tượng của cái mới chưa đậm đặc bằng khi tả cuộc sống cũ. Nhưng trong toàn thể: cảm xúc bài thơ tươi mới lắm và câu thơ kết bài trí tuệ như một biểu tượng:

Mặt trời không muốn lặn
Mặt trời len vào mắt con người

Sau ngày thống nhất đất nước, Yến Lan về sống với quê nhà Bình Định. Thơ ông có một bước chuyển. Một bước chuyển có tính tổng kết, ngẫm nghĩ lại đời người. Ông không làm thơ dài. Không kể và tả chuyện ngoài đời nữa mà nói lòng mình. Thơ như viết cho mình. Nói thật, nói hết những nông nỗi dâu bể đời người mình đã trải. Ông tìm về cách nói cổ điển, hàm súc, đôi khi ước lệ trong thi pháp thơ Đường tứ tuyệt. Cảm xúc phóng khoáng, ung dung, thoáng chút ngậm ngùi năm tháng và nỗi cô đơn của tuổi già:

Tàu ngang quê cũ

Khói quyện đầu ô, nửa xóm nhòa
Tàu dừng đổ khách, sắp rời ga 
Đồng hương kẻ xuống, người ra đón
Mình suốt đời đi chửa tới nhà

Sinh nhật 1989

Năm nay sinh nhật chẳng ra thơ
Xót bạn, mong con, ốm dật dờ
Đón khách những toan ra mở cổng
Giật mình con nhện đã giăng tơ

Chèo

Vò rối tơ rồi, gỡ rối tơ
Gỡ không ra mối lại đem vò
Nàng Vân giả dại, nàng Vân dại
Vân dại nên đời cũng ngẩn ngơ

Trong thời đất nước cắt chia, nhà thơ Yến Lan xa quê Bình Định, ra sống ở Hà Nội, nhiều năm là cán bộ biên tập thơ của nhà xuất bản Văn học, khi ấy là nhà xuất bản chủ lực trong việc giới thiệu thơ. Lứa chúng tôi đều được ông biên tập cho những tập thơ đầu. Ông sửa chữa góp ý tận tình, tỉ mỉ. Ông ít nói, ngay cả khi chúng tôi hỏi về kỷ niệm hồi Thơ Mới, ông trả lời rất tóm tắt như muốn khép lại những chuyện đã qua.
(0) Bình luận
  • Tiếng hát trong vỏ ốc
    Đêm. Run rủi thế nào hai người phụ nữ ấy lại gặp nhau ngay trên bãi cát. Biển về khuya vắng lặng. Những cặp tình nhân thậm chí cũng đã rời đi vì gió trời bắt đầu trở lạnh. Cô đang giẫm lên dấu chân xiêu vẹo của người phụ nữ đi trước mình. Người đàn bà ấy chậm rãi từng bước, dáng đi có phần nghiêng ngả như một kẻ say.
  • Quà trung thu của ba
    Khoa đang rất vui vì lần đầu tiên được cùng ba tự tay làm đồ chơi Trung thu. Những năm trước, cậu cũng có đèn lồng, đầu lân nhưng đều là quà mẹ mua sẵn vì ba phải đi công tác. Năm nay, ba được nghỉ phép, liền rủ Khoa cùng làm đầu lân bằng tre và giấy báo cũ.
  • Đôi mắt xuyên bão
    Buổi sáng đầu thu, gió vương chút lạnh và lá trên hàng sấu trước cửa văn phòng Hương bắt đầu úa vàng. Hương pha một ấm trà sen. Thói quen ấy cô đã giữ suốt bao năm cho dù cô chẳng nghiện.
  • Chuyện người đàn bà
    Chín năm về trước, vào khoảng chiều tối, anh phó công tố viên Py-ốt-tơ-rơ Xia-rơ-dếch và tôi ngồi xe ngựa băng qua đồng cỏ đang mùa phơi để đưa mấy lá thư từ trạm về.
  • Sau bão
    Tiếng ấm đun sôi ùng ục. Chị toan mở nắp, chợt nghe có tiếng bước chân. Lại thế. Bà Thịnh giật lấy quả trứng khỏi tay chị. Bà miết ngón trỏ lên vỏ trứng nhẵn bóng như muốn truyền vào đó một thứ nôn nóng khó tả, rồi đập vỡ bằng cái bực dọc đang hừng hực dâng lên. Chẳng ai được ăn quá hai quả trong tuần. “Mì còn dư, lại muốn trương ra rồi húp?” - bà liếc sắc lẹm, ánh nhìn như lưỡi móc câu thọc thẳng vào miệng cá.
  • Tiếng “tút tút” cuối cùng
    Xóm Tìm nằm nép mình bên dòng sông Trà Lý, nơi bầu trời dường như sà xuống thấp hơn, và mùi bùn non cứ thế quyện vào hơi thở, vào máu thịt của những người dân lam lũ. Ở cái xóm nhỏ ven đê này, mỗi buổi sáng, vào lúc sáu giờ, một chuỗi âm thanh quen thuộc “tút tút…” lại vang lên từ chiếc loa truyền thanh của xã đặt trên đỉnh cột làm từ một cây xoan già.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Triển lãm nghệ thuật sơn mài chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV
    Chiều ngày 12/12/2025, “Triển lãm nghệ thuật sơn mài hướng tới chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV” đã khai mạc tại 29 Hàng Bài, phường Cửa Nam, Hà Nội. Sự kiện do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức, giới thiệu 44 tác phẩm sơn mài tiêu biểu của nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam.
  • Bạn thi nhân bên Đầm Én - Nha Trang
    Khởi nguồn từ thành Bình Định bên dòng sông Côn, lớn lên trong tình thơ của bốn thi nhân mà người đời gọi là “tứ linh”, với danh vọng thật ấn tượng “Bàn Thành tứ hữu”: Hàn Mặc Tử (long), Chế Lan Viên (phượng), Yến Lan (lân) và Quách Tấn (quy). Họ đã gắn bó với nhau bằng tất cả tấm lòng trong sáng, lãng mạn từ thuở hoa niên cho đến khi bay về trời như cánh mai mùa xuân.
  • Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội 2026: Nhiều không gian sáng tạo mới được khai mở
    Chiều ngày 10/12, tại Cung Thiếu nhi Hà Nội đã diễn ra Lễ công bố Khung hoạt động Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội 2026 và ra mắt Mạng lưới không gian sáng tạo Hà Nội. Sự kiện do UBND Thành phố Hà Nội, Hội Kiến trúc sư Việt Nam chỉ đạo; Sở Văn hóa và Thể thao và Tạp chí Kiến trúc tổ chức, cùng với sự đồng hành của UNESCO, Tập đoàn Sovico cùng nhiều đơn vị.
  • Phòng hội nghị và triển lãm lớn nhất thế giới phục vụ APEC tại Phú Quốc
    Trung tâm Hội nghị – Triển lãm APEC do Tập đoàn Sun Group đầu tư xây dựng tại Phú Quốc sẽ sở hữu phòng hội nghị và triển lãm (ballroom) rộng 11.050 m², vượt qua ballroom lớn nhất Đông Nam Á - Sands Grand Ballroom thuộc Marina Bay Sands (Singapore) và cả ballroom lớn nhất thế giới - Caesars Forum tại Las Vegas (Mỹ).
  • The Komorebi - Điểm đến của dòng vốn thông minh đầu tư vào phong cách sống
    Trong bối cảnh nhiều kênh tài sản biến động theo chu kỳ, bất động sản phong cách sống vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định nhờ giá trị tạo ra từ trải nghiệm và cảm xúc. Khu biệt thự phong cách Nhật The Komorebi tại Vinhomes Royal Island (Hải Phòng) đang nổi bật trong xu thế này, nơi phong cách sống trở thành lợi thế cạnh tranh và yếu tố gia tăng giá trị dài hạn.
Đừng bỏ lỡ
Yến Lan: “Mình suốt đời đi chửa tới nhà”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO