Chợ Rồng hôm nay
Nam Định là thành phố có tuổi hơn 750 năm. Nam Định ngày ấy có trường thi và Văn Miếu. Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm triều đình lại mở khóa thi ở Nam Định, có thi Hương và thi Hội. Người đậu khóa thi Hội được gọi là Thám hoa, đậu khóa thi Ðình được gọi là Tiến sĩ.
Ngõ Văn Nhân có tên cùng với sự ra đời của trường thi, như là sự “ăn theo” trường thi. Vào dịp thi Hương, thi Hội, những nho sinh áo the khăn xếp từ khắp nơi trong vùng tụ về. Họ làm lều tạm la liệt trên những thảm cỏ ven trường. Tối đến thì tụ bạ dắt díu đi trên đường Trần Hưng Đạo, rẽ vào cái ngõ lớn, cách chợ Rồng vài trăm bước chân. Ngõ này có rất nhiều hàng cơm, hàng cháo, hàng xôi xíu, bánh gai, bánh phu thê. Ăn xong, những hàn sĩ thì quay về lều ngủ. Người khá giả thuê nhà trọ ngay trong ngõ cho đến hết kì thi. Cái tên ngõ Văn Nhân được hình thành là như vậy. Nó được hình thành một cách rất tự nhiên, do dân gian gọi nhiều thành tên.
Là thành phố có quá trình phát triển lâu đời, gắn liền với ngành dệt may, lại ở nơi đầu mối giao thương của đồng bằng Bắc Bộ, Nam Định đã hình thành nên nhiều cái chợ, nhưng lâu đời nhất, nổi tiếng nhất vẫn là chợ Rồng. Chợ Rồng có tuổi đời tương đương với chợ Đồng Xuân - Hà Nội, chợ Sắt - Hải Phòng. Chợ được xây dựng năm 1922 do kỹ sư người Pháp thiết kế. Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, chợ Rồng bị bom Mỹ dội xuống nhiều lần, năm 1991 chợ lại bị cháy lớn, hư hỏng nặng, phải phá bỏ hoàn toàn để xây dựng lại ngay trên nền chợ cũ, có diện tích 10000 m2. Chợ ngự nơi trung tâm thành phố, người mua kẻ bán rất thuận tiện. Tất cả những gì phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con người hầu như đều có ở đây. Nhưng nếu chợ Rồng chỉ có chức năng như thế, ắt nó sẽ lẫn với hàng trăm hàng ngàn cái chợ của nhiều thành phố, thị xã khác. Chợ Rồng trở nên nổi tiếng, thành một biểu tượng của thành phố Nam Định là còn bởi nó gắn với rất nhiều cuộc đời của những văn nhân, nghệ sĩ.
Cách phố Trần Hưng Đạo, nơi có chợ Rồng và ngõ Văn Nhân một quãng là phố Hàng Nâu, nơi có ngôi nhà cổ bằng gỗ của nhà thơ Tú Xương. Sinh thời ông Tú thường ghé phố Hàng Thao để hát ả đào. Gặp gỡ bạn bè cũng ở đấy. Những câu thơ, có thể nói hay nhất viết về tình bạn, tình yêu được ông Tú sáng tác theo nguồn cảm hứng từ những cuộc gặp gỡ ở phố này, như “Áo bông che bạn”, “Đi hát mất ô”... Chuyện thi cử với Tú Xương giống như một nghiệp chướng. Ông Tú học hành thông minh như trạng nhưng ba lần mũ áo đi thi đều trượt. Từ phố Hàng Nâu đến trường thi, Tú Xương thường chọn lối đi qua ngõ Văn Nhân để lấy không khí. Mỗi lần như vậy bà Tú cũng nhét vào túi dết của ông mấy hào để ông ăn phở ngõ Văn Nhân, chứng tỏ cho đám sĩ tử biết, ông không đến nỗi nào.
Chợ Rồng thì cũng không hề xa lạ với Tú Xương. Ông Tú vào đó không hẳn là để mua sắm, có khi chỉ là một sự giải tỏa tâm trạng sau cuộc hỏng thi, tìm cảm hứng sáng tác. Bài thơ “Cô cáy chợ Rồng” rõ ràng là được khởi nguồn cảm hứng từ đây. Nhưng Tú Xương đến chợ còn vì cái nghĩa tào khang nữa. Người vợ của ông, tuy cũng con nhà gia giáo, chữ Nho đọc thông viết thạo, nhưng chỉ vì trót yêu và quyết lấy một chàng thi sĩ có máu lãng tử, ngoài cái tài thơ phú, còn lại làm việc gì cũng dở nên bà phải chịu cảnh lam lũ “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng…”. Nói thế không có nghĩa là lúc nào bà Tú cũng chỉ ngồi ở mom sông, cạnh bến đò Chè mà buôn bán. Chỗ ấy chỉ có thể mua đi bán lại mớ tôm mẻ tép, rọ cua giỏ rạm, còn khi mua cất được yến gạo nếp hương, bao gạo tám xoan thì phải đưa vào chợ Rồng bán cho các nhà giầu mới được giá! Vì thế, là một người luôn mang trong lòng một niềm hàm ơn vợ, Tú Xương còn hay đến chợ Rồng là để động viên bà, giúp bà những việc lặt vặt, nịnh khéo để bà mua cho chai rượu nếp cắm tăm nữa.
Đi hết ngõ Văn Nhân sẽ gặp phố Bến Ngự, có nhà số 7 được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia, bởi ngôi nhà cổ kính này từng là nơi hội tụ nhiều nhân vật yêu nước nổi tiếng. Người xây dựng ngôi nhà là cụ Trần Doãn Đạt, phụ thân Tam nguyên Trần Bích San, người đỗ đầu liên tiếp các khoa thi Hương - thi Hội - thi Đình, được mệnh danh là Tam nguyên Vỵ Xuyên. Trần Bích San còn là một sĩ phu yêu nước, một nhà thơ có danh tiếng. Mặc dù Trần Bích San đỗ đạt cao, làm quan to trong triều đình thời Tự Đức, nhưng cụ Trần Doãn Đạt vẫn lo con vì thành đạt mà dễ sinh lòng kiêu bạc, cụ đã làm thơ dặn con:
Hữu thức phi nan, nan thức đáo/
Vô danh bất hoạn, hoạn danh phù.
(Để hiểu biết không khó, khó là phải biết đến nơi/ Không lo không có danh, chỉ lo danh hão).

Ngôi nhà số 7 Bến Ngự còn có tên là Cổ Mai Trang (vườn hoa mai) vì tại đây gia đình Trần Bích San có hẳn một vườn hoa mai với đủ loài mai quý từ khắp nơi sưu tầm về. Những tên tuổi lớn của văn hóa nước nhà như Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (thầy dạy Trần Bích San), Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (bạn đồng khoa với Trần Bích San), Tiến sĩ Vũ Phạm Khải (bạn vong niên với Trần Bích San)... mỗi năm không dưới một lần qua đây. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng siêng năng có mặt ở địa chỉ này bởi ông yêu hoa mai đến độ si mê. Nhạc sĩ Văn Cao, sau thời gian dài dâu bể, năm 1989 ông cùng vợ trở về thăm quê Nam Định. Trong nhiều địa chỉ mà tôi đưa vợ chồng ông ghé thăm và ăn uống không thể bỏ qua chợ Rồng và ngõ Văn Nhân. Ngày cuối cùng Văn Cao bảo chúng tôi đưa ông đến Cổ Mai Trang của cụ Trần Bích San. Đến đây ông ngắm nhìn cảnh vật với vẻ man mát buồn, rồi hỏi người cán bộ văn hóa phường: “Cây bạch đào còn không?”. Hóa ra Văn Cao từng đọc bài thơ ứng tác của Nguyễn Bính nói về cây bạch đào trong Cổ Mai Trang. Người cán bộ văn hóa phường trả lời rằng, cây bạch đào đó không còn. Văn Cao tỏ ra vô cùng tiếc nuối, nói với gia chủ: “Bạch đào là cây hoa quý, nếu có thể sưu tầm lại được nó, trồng vào đúng chỗ cây bạch đào xưa, sẽ rất ý nghĩa…”.
Nơi ngõ Văn Nhân tiếp giáp với phố Trần Hưng Đạo là khuôn viên nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm hay còn gọi là nhà thờ Lớn, phía Nam nối với sân nhà thờ là phố Hàng Cau, nơi sinh của nhà văn Nguyên Hồng. Gia đình Nam Cao cũng theo đạo Thiên Chúa. Gia đình ông ở làng Đại Hoàng, thuộc địa phận tỉnh Hà Nam, nhưng ngôi làng này cách thành phố Nam Định chưa đầy chục cây số. Làng Đại Hoàng có nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải truyền thống, có quan hệ mật thiết với nhà máy dệt Nam Định. Tuổi thơ Nam Cao theo cha xuống Nam Định học trường Thành Chung, ngôi trường được thiết lập ngay trên nền đất trường thi xưa. Cha con ông ở số nhà 42C, phố Hàng Đàn. Nhà văn Tô Hoài có lần kể với tôi rằng một lần về chơi với Nam Cao ông đã được bạn mời đi đến nhà thờ Lớn dự lễ Phục sinh. Nam Cao yêu thành phố này nên trước ngày đi tham gia kháng chiến, ông dặn vợ, sau này hết chiến tranh mà ông không về thì bà nên chuyển xuống Nam Định ở cho các các con có điều kiện học hành, thi thố. Bà Trần Thị Sen, vợ Nam Cao đã thực hiện đúng như ước nguyện của chồng, hết chiến tranh chống Pháp, bà đã chuyển cả nhà xuống ở trên một gác hai, ngôi nhà cổ trên đường Lê Hồng Phong, Nam Định. Ba người con của ông bà đều theo ngành dệt.
Bên kia cổng chợ Rồng là phố Hàng Đồng, nơi có ngôi nhà của người nhạc sĩ tài hoa bạc mệnh Đặng Thế Phong. Mới 24 tuổi đầu ông đã về với cát bụi nhưng kịp để lại cho nhân gian ba nhạc phẩm sống mãi với thời gian: “Đêm thu”, “Giọt mưa thu” và “Con thuyền không bến”. Vì ông mất sớm, chưa có sách báo nào kịp ghi một dòng về mối quan hệ giữa ông với chợ Rồng và ngõ Văn Nhân, nhưng với một nhạc sĩ tài hoa, lãng mạn, tâm phúc với đời như Đặng Thế Phong thì chợ Rồng và ngõ Văn Nhân không thể xa lạ với ông.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan có một thời gian dài về dạy học trường Thành Chung Nam Định. Nhà văn ở trên căn gác xép của căn nhà có tên Bùi Chu thuộc một con phố nhỏ ngay sát phía Đông Nam chợ Rồng. Hàng ngày từ trường về, ông vẫn ngồi trên căn gác này sáng tác văn chương trong tiếng lao xao mua bán dưới chợ. Rồi một hôm có người nông dân rách rưới từ Ninh Bình ra, tìm đến căn gác xép ấy kể cho Nguyễn Công Hoan nghe chuyện cuộc đời cùng cực của mình, đó là chất liệu để nhà văn sáng tác tiểu thuyết “Bước đường cùng”…
Nguyễn Bính thì có nhiều kỷ niệm sâu sắc với Chợ Rồng và ngõ Văn Nhân. Sau những năm tham gia kháng chiến 9 năm ở Nam Bộ, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, hội tụ bạn bè, lập ra báo Trăm Hoa. Tờ báo bán rất chạy, nhưng chỉ được 4 số là phải đình bản vì có liên quan đến Nhân văn Giai phẩm. Nguyễn Bính trở về quê với hai bàn tay trắng và một tâm trạng tan nát, u hoài. Ngôi nhà cũ ở xã Cộng Hòa đã chuyển quyền sở hữu cho người khác, Nguyễn Bính sống nhờ nhà bạn bè. Thật may, Nguyễn Bính có một nhóm bạn ở Nam Định, họ thương yêu và cưu mang ông một cách vô tư. Họ thường rủ nhau đến “Cổ Mai Trang” thưởng hoa, đến ngõ Văn Nhân ăn phở và đi dạo chợ Rồng. Một lần một mình vào chợ, Nguyễn Bính nhìn thấy một thiếu nữ không còn trẻ, cũng không xinh đẹp, nhưng ông đặc biệt chú ý đến nàng bởi ông bắt gặp nàng đang đọc cuốn “Lỡ bước sang ngang” của ông. Thấy ông chú ý đến cuốn sách, thiếu nữ vội giấu nó xuống sạp hàng. Hồi ấy, tập thơ “Lỡ bước sang ngang” của Nguyễn Bính đã bị cấm.Trong tâm trạng cô đơn lạnh lẽo, ông đã bị cảm kích trước người thiếu nữ lén lút đọc thơ của mình, ông run rẩy xúc động nói chuyện với nàng, và cuối cùng thì ông đã cầu hôn nàng. Đó là bà Lai. Bà lấy ông, tôn thờ và cưu mang ông. Họ có với nhau một con trai. Tiếc rằng, hạnh phúc của họ cũng không kéo dài được bao lâu.