Trà Hương vị du ca
Trong những tinh túy ẩm thực, trà là đồ uống mang hành trình gợi đầy chiêm nghiệm. Trà đến với người bởi nhớ, bởi duyên và bởi sự mê đắm của người, bảo tri kỷ thật chẳng sai.
Sao giời đất, thiên nhiên tạo vật lại tặng cho người, cho đời loài cây này để cổ kim mê hoặc đến thế? Hương vị trà là bản du ca từ quá khứ đến hiện tại, từ xa xôi đến lòng tay, tan trên đầu lưỡi, say sưa vô cùng. Bản du ca của trà có những khởi đầu khác nhau, vượt thời gian, không gian, bất chấp mọi địa hình, địa giới để người mê trà hôm nay vẫn còn viết tiếp.
Xôn xao mùa xuân, đi tìm dấu trà, phải tính bằng nghìn năm mới thỏa.
Thăm thẳm nốt trầm xa lắc, có ý kiến cho rằng cây chè (cách gọi thuần Việt) có nguồn gốc cổ xưa từ 4000 đến 5000 năm trên đất Việt ta, đã từng có những cây chè hóa thạch. Nơi xa, chè xứ người không chỉ được vun trồng để thu hoạch mà còn được gắn với những truyền thuyết cao quý. Chuyện rằng, cả hai lần lá chè rơi đều cơ hồ vô tình trúng vào cốc của Thần Nông và Đức Phật Gautama, kể từ đây có tục uống trà, trà trở thành một thức uống. Cũng vẫn cây chè, khúc du ca của nó lại có khi là sự đốn ngộ về thể xác và tinh thần.
Truyền thuyết về thức uống này vẫn kể về lần vị thiền sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma ở thế kỷ thứ VI đã ngủ quên trong buổi tọa thiền. Khi tỉnh giấc, ngài bèn bực tức cắt hai mi mắt vứt xuống đất. Từ chỗ đó đã mọc lên hai khóm cây chè - cây chè chứ không phải loài cây khác.
Theo một truyền thuyết của người Nhật, cây chè xuất hiện trên mộ phần một vị danh y, đem theo đủ tinh hoa của 22.000 loài cây quý. Cùng với nhiều cách giải thích khác, thì dù vô tình hay hữu ý, trà đến với người, hay con người đã tìm thấy trà, chính là một hành trình tìm đến và ở lại những miền đất của loài cây này. Bản du ca hương vị này luôn hấp dẫn và đã có khi trở nên kỳ diệu.
Trà đạo ở các quốc gia như Nhật Bản, Trung Hoa được gìn giữ và phát triển trong suốt chặng dài thời gian. Trà với hương vị và thanh âm đặc biệt của nắng gió, sương mai, của tay hái, lửa sao, của nước, của tình đã xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai. Trà tươi mới như búp, như hương, trà mộc mạc, thâm trầm hay sang trọng trong túi gói, hộp đựng, trà gần gụi, thân mật trong lòng tay, trà mát rượi đã cơn khát mùa hè xứ nóng. Trà là bạn, trà mang tâm hồn, để rồi người ta luôn phải nói: trà là tri âm, tri kỷ.
Trà đến và chung sống với người Việt, trà là nước uống phổ biến truyền đời. Trà mang âm hưởng thiên nhiên về tư gia để đời sống con người phong phú hơn. Bên ấm chè xanh mới hãm, câu chuyện trải dài suốt chặng, từ thuở hồng hoang mở cõi cho đến năm mất mùa đói kém. Từ độ tổ ấm mới nhen cho đến khi con đàn cháu đống. Người Việt uống chè tươi, chè xanh hãm đặc, cái ấm ủ hay có nơi gọi giành tích để ủ trà dù trên bàn bộ trường kỷ hay trên chiếu hiên nhà, trên chõng góc sân đều thấm đẫm câu chuyện của gia đình chủ nhân và họ hàng, làng xóm.
Trà thấm câu chuyện gia đình, dòng tộc, chuyện làng nước. Chén trà hạnh phúc ấm tay người trao, người nhận. Chén trà reo vui với nhài, ôn tồn với mộc, chén trà thơm với hoa sen, hoa sói.
Khi độc ẩm, ngắm nhìn búp khô móc câu, thấy tiếng reo của lửa, thấy hương trà thơm át khói bếp năm nào, thấy cả trà bồm nước đỏ đọc, trà năm hào hai thời bao cấp gian khó… Trà đã luôn bên người. Trà đã hào phóng hương vị với tri kỷ và đã có khi chùng xuống cùng người nhọc nhằn, lao khổ. Mỗi chặng thăng trầm, mỗi lời nhắc nhớ, trà gần gụi ấm nồng, trà xênh xang trò chuyện, trà hồi hộp hạnh phúc, trà chênh vênh âu lo, trà ngậm ngùi nước mắt khi biệt ly. Có những cách trở âm dương, trà đắng ngắt hỏi người tri kỷ bao giờ trở lại… Thật là khó có điều gì, lẽ gì, có ai mà lại gần gặn với người như trà. Trà thấm đầu lưỡi, trà thơm trong miệng, trà ưng người đun nước pha, ưa cái thắt đáy lưng ong, hai tay mời nước để người con trai phải lòng về bên ấy thưa mẹ, thưa cha, về bên này thưa thầy, thưa u xé cau đi dạm ngõ. Trà đóng túi, xếp trong cơi trầu, trà mời hai họ, trà báo hỉ, thưa lời rằng đã nên duyên.
Khúc du ca kể ngày tháng, sớm khuya, kể dặm đường xa ngái, từ quán hàng sang đến quán nước bên đường trà vẫn đồng hành. Khi là bát nước dưới gốc cây góc chợ, lúc lại trên cái chõng, cái chựng của người quê, trong quán hàng thơm mát đều có trà, có người tìm gọi trà cho mình, cho bạn.
Trà đi vào tiếng hát lời ca:
Khách đến chơi nhà, đốt than,
quạt nước mấy pha trà mời người xơi
Chén trà này quý vậy, người ơi!
Trà đơn giản là thức uống hằng ngày, nhưng trà cũng có vị trí quan trọng trong đời sống của tao nhân, thi sĩ. Người phụ nữ, người vợ không chỉ chiều lòng mà còn hãnh diện với thú vui tao nhã này của người bạn đời:
Lấy chồng trà rượu là tiên
Lấy chồng cờ bạc là duyên nợ nần.
Hay:
Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà mạn hảo,
ngâm nôm Thúy Kiều
Trong kho tàng tục ngữ ca dao có rất nhiều câu nói đến trà, trà gắn với những địa danh, trà làm nên danh tiếng cho đất và người. Khúc lãng du với nương chè, với người bản địa hẳn đã níu chân người:
Chè Thái, gái Tuyên.
Hay:
Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ,
uống chè hương sen.
Những thắt đáy lưng ong thổi lửa đun nước pha trà, chưa thưởng chén thơm đã mê, thì lại có những ví von về sự đểnh đoảng, vụng về của người lười, là chén trà vô duyên và nhạt:
Trà hâm lại, gái ngủ trưa.
Chè ngọt giọng, lưu thơm theo cách đặc biệt, có tinh túy của giời đất, sương mai, lại có gió giăng, ấm lạnh. Trà tìm đến với vị ngọt của mứt kẹo, vị bùi thơm của bánh trái như thể đã hẹn từ vạn kỷ. Những mứt Tết, bánh gai, những bánh khảo, kẹo vừng, những cu đơ, kẹo lạc… Chè rót, bánh bày câu chuyện vắt qua mùa, vượt qua những chặng dài thế kỷ, những ngậm ngùi gian khó và trở về hôm nay đây, chén trà này còn lại những tình thân, hạnh ngộ, đón những ngày mai…
Xuân biêng biếc, trà trong hộp vuông, giấy thiếc, trà từ chốn xa về, trà cân lạng ở chợ làng chợ tổng cũng đã về đến ban thờ tiên tổ, đã sẵn sàng nơi bàn trà đón khách. Hương xuân, gió xuân hay mưa xuân đã chia ngày ùa ập, trà vẫn vậy, cùng người nói, viết hay vô tự, vô ngôn tiếp tục cuộc du ca của mình. Cuộc du ca bất tận từ ngàn xưa, từ mọi miền trần gian, tự ân tình, tự trong ta, sâu thẳm ở trong ta.