Thôi đành thả cái mênh mang…

Đặng Huy Giang| 05/10/2022 05:11

(Đọc “Mấy chiều Thăng Long” của Nguyễn Chính, NXB Hội Nhà văn, năm 2022)

Thôi đành thả cái mênh mang…
Năm ngoái, người bạn vong niên, nhà thơ Nguyễn Chính của tôi, vì có việc gia đình mà trôi dạt vào tận “hòn ngọc Viễn Đông” một thuở. Thế rồi, vì Covid-19, ông bị mắc kẹt ở Sài Gòn đến 4 - 5 tháng ròng, bị phong tỏa trong một căn nhà và sống trong tình trạng “cơm niêu nước lọ”. Như người khác thì chỉ còn nước thở vắn than dài, than thân trách phận, nhưng với ông thì… không, dứt khoát… không, tuyệt đối… không. Dễ giải thích vì ông là người có cái chất tự tại và lấy thơ làm cứu cánh, mở ra cánh cửa tự do cho mình. Thế nên mọi ghìm nén, tức khắc có chỗ giải thoát. Cả trăm bài thơ của ông, cả trăm đứa con tinh thần của ông được “hạ sinh” trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt và gian nan này. Rồi ông gom lại thành một tập thơ mang tên “Mấy chiều Thăng Long” và được ấn hành qua Nhà xuất bản Hội Nhà văn mới đây.
“Mấy chiều Thăng Long” có vệt thơ rất lạ, mang dấu ấn dịch Covid. Đó là “Hai lần lịch sử”, “Bước đường cùng”, “Người đi trong bão dịch”, “Dịch ngẫm”, “Ngày dịch”, “Sài Gòn mùa đại dịch”, “Cám cảnh”… Thoạt đầu đọc, cứ nghĩ là ông “hướng ra ngoài”. Đọc kỹ, mới thấy ông “hướng vào trong”. Cụ thể hơn: Ông cứ hướng vào ông, hướng vào thế giới nội tâm, vào thân phận con người mà viết. Ông không khỏi cám cảnh và đau đớn, liên hệ giữa hai thời điểm lịch sử (1975 và 2021) khi hạ bút: “Màn trời chiếu đất tha phương/ Di tản hồi ấy, hồi hương bây giờ”; “Ngày xưa/ Vội di tản/ Bây giờ/ Gấp hồi hương/ Bước đường cùng/ Có phải”; “Nóc nhà gần đấy mà xa/ Năm châu bốn biển chưa qua nóc nhà”… Rồi ông nhận ra cái bên ngoài: “Có điều gì sục sôi/ Ở bên bể mặt ấy/ Thành phố của tôi ơi/ Có bao điều chưa thấy/ Đừng nói thành phố chết/ Thành phố đang nghỉ ngơi” và cũng nhận ra ngay cái bên trong: “Dịch còn, rượu hết, đường ra…chặn/ Giữa bốn bức tường, thôi hết say/ Dán mắt màn hình, đời sống chậm/ Anh nhớ em nhiều, em có hay”; “Hỡi người lưu lạc phương xa/ Nhà thuê, việc mất biết là về đâu?”. Vệt thơ này có cái không khí lẫn dấu ấn rất rõ của mùa dịch ngay trong vùng tâm dịch. Nhà thơ không chỉ thấy mà còn cảm theo cách của mình. Nên nhớ với người viết, thấy mới chỉ là hiện thực thứ nhất, còn cảm mới là hiện thực thứ hai và hiện thực thứ hai thường được đánh giá cao hơn hiện thực thứ nhất. Bởi thấy thì nhiều người thấy được và thuộc về số đông, còn cảm thì không phải ai cũng cảm được và thuộc về số ít. Và cái cảm, cách cảm trước hiện thực mới làm nên cái riêng, nét riêng của người viết. Vậy là với Nguyễn Chính, dịch Covid chỉ là cái cớ để viết. Và ông đã vượt lên cái khổ trăm bề của đại dịch và đương nhiên là cao hơn cái khổ trăm bề ấy rồi.
Với Nguyễn Chính, vệt thơ này chỉ là cái nhất thời, cái hiện tượng, còn cái nhiều thời, cái bản chất lại được gọi tên ở nhiều bài thơ khác. Tôi dám chắc, Nguyễn Chính là người có cái tâm không phân biệt. Bằng chứng là trong “Điếm  thờ xóm tôi”, ông khẳng định chắc nịch: “Thánh thần và chó đá/ Đều được thờ như nhau”. Tôi dám chắc, cái chất “Tình yêu là cái chi chi/ Dẫu chi chi cũng chi chi với tình” có từ thời Nguyễn Công Trứ chưa bao giờ buông tha Nguyễn Chính. Ông thích “Con mắt em nhìn đăm đắm”; “Tỉnh say say tỉnh đò đưa/ Vui sao ngày ấy em chưa lấy chồng…” Ông si mê một cách thiệt tình đến nỗi “Tôi lơ mơ mãi đàn bà”; “Cho tình được thỏa phấn hương”; “Mong đời còn có kiếp sau”... Ông tình tứ đến nỗi: “Quả cau nho nhỏ vân vi/ Vôi nồng chưa quệt, đã gì đâu anh”. Ông xác nhận thiên chức của đàn ông lớn đến mức: “Một thời gánh vác sơn hà/ Cả đời gánh vác đàn bà trên vai”…    
Ông có nhiều cặp lục bát ấn tượng, hàm chứa cả cái tài, cái tình và cái tôi duy nhất, cái tôi độc đáo. Có thể tạm thống kê, “Sông Thương nước chảy đôi dòng/ Đục, trong cũng vẫn một lòng sông Thương”; “Mắt buồn thăm thẳm còn đây/ Tấm thân lưu lạc biết ngày nào yên”… Người nhận ra “lòng sông Thương” trong “sông Thương nước chảy đôi dòng”, nhận ra cái bản chất trong cái hiện tượng, cái bất biến trong cái vạn biến như vậy, chắc chỉ có Nguyễn Chính. Còn đây là những câu lục bát đặc sệt chất Nguyễn Chính:
Sự đời gói mãi nặng lòng
Thì đem tung cái tang bồng ra phơi
Tang bồng là tang bồng ơi
Khoác vai tôi với cũng chơi tang bồng
hay:
Thôi đành thả cái mênh mang
Ngỡ mình đang nắm đôi bàn tay xưa
Hội vừa lất phất hạt mưa
Ô che hai đứa mà chưa biết gì
và:
Tay nâng một chén rượu suông
Buồn vui đổ hết ngọn nguồn lạch sông.
Riêng hai câu: “Tay nâng một chén rượu suông/ Buồn vui đổ hết ngọn nguồn lạch sông“ rất ra cái chất và bản lĩnh sống, con người thật của Nguyễn Chính. Cho nên, nếu nói thơ là người và nếu áp vào trường hợp của Nguyễn Chính thì chuẩn đến mức không cần chỉnh. Tôi dám chắc nếu chọn đơn vị thơ là một cặp lục bát thì Nguyễn Chính sẽ là người sở hữu nhiều đơn vị thơ lục bát rất đáng kể và cũng rất đáng nể.
Nguyễn Chính còn là luôn người nặng lòng với nỗi đau thời hậu chiến và ký ức đồng đội. Với ông, đó là những ám ảnh khôn nguôi. “Nâng niu một tấm ảnh treo/ Nụ cười lính trẻ lưng đèo Trường Sơn”; “Buông tay đứng dậy mà đi/ Sống vì nhau, chết còn vì nhau hơn”; “Mẹ ngồi, mẹ nhớ, mẹ thương/ Bạn già là những huân chương, bảng vàng/ Nắng hè tháng bảy như rang/ Nỗi đau lòng mẹ ngổn ngang: Đâu người”; “Tạ từ người đã qua đây/ Đá mồ côi giữ dấu giày cỏ lau”; “Lâu lâu cháo lòng Cửa Nam/ Thương nhau lính tráng làm quan vẫn nghèo/ Rượu ngang rót mãi trong veo/ Đường về ngất ngưởng mấy chiều Thăng Long”… Điều này rất dễ giải thích, vì Nguyễn Chính có nhiều năm trong quân ngũ, từ binh nhì, binh nhất… rồi lên đến đại tá khi nghỉ hưu. Ông có nhiều năm vào Nam ra Bắc, nhiều năm sống và chiến đấu ở chiến trường B, với nhiều trải nghiệm chiến tranh không phải người lính nào cũng dễ dàng mà có.
Sau chót, thơ Nguyễn Chính là thơ của một người ngất ngưởng, xênh xang, dào dạt, khoáng đạt và đa tình. Còn Nguyễn Chính là là người trải người, trải việc, hiểu đời và biết mình đến tận cốt lõi. Chẳng thế mà ông từng tự trào về mình, tự vẽ chân dung mình triệt để và trung thực đến mực khó có thể triệt để và trung thực thêm được nữa:
Cả cuộc đời nhậu nhẹt
Cứ suốt ngày lang thang
Thế cũng lên đại tá
Miệng cứ cười oang oang.  
(0) Bình luận
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • Thao thức với phần đời chiến trận
    Có thể nói cuộc kháng chiến trường kỳ hào hùng và bi tráng của dân tộc, ở bất kỳ trạng huống nào dường như đã chi phối và tạo động lực cho đội ngũ văn nghệ sĩ, những người cầm bút suy nghĩ và sáng tạo. Ta hiểu vì sao ngay trong cuộc sống thời bình, trong đời sống dân sự, những hình ảnh của ngày hôm qua vẫn khiến con người luôn “thao thức với phần đời chiến trận”.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Kiến trúc sư trẻ: Hành trang đổi mới để hội nhập quốc tế
    Trong bối cảnh kiến trúc xây dựng toàn cầu đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ dưới tác động của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và yêu cầu phát triển bền vững, đội ngũ kiến trúc sư (KTS) trẻ Việt Nam đứng trước những thách thức chưa từng có, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội mới để khẳng định vai trò và vị thế nghề nghiệp. Tọa đàm “Kiến trúc sư trẻ với đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế” do Hội Kiến trúc sư Hà Nội tổ chức ngày 19/12 đã trở thành diễn đàn quan trọng nhằm nhận diện thực tiễn, chia sẻ kinh nghiệm và đề xuất giải pháp thúc đẩy năng lực hội nhập cho thế hệ KTS trẻ hiện nay.
  • Tour trải nghiệm “Ký ức Cột cờ” - cảm nhận lịch sử Hà Nội bằng hình ảnh và cảm xúc
    Nhân dịp kỷ niệm 79 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 - 19/12/2025) tour trải nghiệm "Ký ức Cột Cờ" ra mắt tại Di tích Cột cờ Hà Nội, mở ra một cách tiếp cận mới với lịch sử Thủ đô, nơi di sản được kể lại bằng trải nghiệm, cảm xúc và ngôn ngữ của thời đại.
  • Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội: Nỗ lực gìn giữ và lan tỏa giá trị văn hóa dân gian
    Sáng 18/12, tại khách sạn La Thành (Hà Nội), Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2026. Đây là dịp để Hội nhìn lại một năm hoạt động trong, đồng thời xác định những định hướng quan trọng cho năm 2026.
  • 5 đột phá chiến lược đưa Hà Nội trở thành đô thị hiện đại, văn minh, giàu bản sắc trong kỷ nguyên mới
    Tại Hội thảo khoa học “Thủ đô Hà Nội trong kỷ nguyên phát triển mới” diễn ra sáng 19/12 do Thành ủy Hà Nội và Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức, PGS.TS Phùng Hữu Phú - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương đã có chia sẻ rất tâm huyết về 5 bước đột phá để Hà Nội bước vào kỷ nguyên mới với tâm thế chủ động, sáng tạo, vươn lên mạnh mẽ.
  • Mở rộng lên 4 làn xe tuyến đường bộ cao tốc Cam Lộ - La Sơn
    Cao tốc Cam Lộ - La Sơn được đầu tư khoảng 6.463,182 tỷ đồng để mở rộng lên 4 làn xe phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật đường cao tốc cấp 80 theo TCVN 5729:2012 và QCVN 117:2024/BGTVT.
Đừng bỏ lỡ
Thôi đành thả cái mênh mang…
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO