Là con của ông Đặng Mại, quê quán ở Chọ Hang, là ng Gián Thủy, huyện Nha Nghi Lộ, Nghệ An. Ngà y nay là xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà tĩnh. Chọ Hang là một là ng nhử nằm dưới chân núi Phượng Sơn nay không còn dân ở, sau quá trình dời biển lập là ng, nhiửu khu dân cư nhử sống rải rác dưới chân núi Hồng Lĩnh di dời vử các vùng ven biển, các là ng như Chọ Hang, Chọ Đình, Chọ Trúc, Chọ Sim...vv..nay chỉ còn là tên gọi. Xưa à”ng Đặng Mại là m nghử nuôi thú, sống trong túp lửu tranh bên sườn núi đá. Không biết ông Đặng Mại từ đâu tới định cư ở đây, ông dạy dân đan lưới , bắt cá và săn thú. Thời đó cuộc sống của người dân vùng nà y rất khó khăn. Người ta chỉ dựa và o các nghử săn bắt, còn việc trồng trọt thì kử¹ thật hết sức đơn giản. Chính trong bối cảnh đó ông Đặng Mại đã phát hiện ra rất nhiửu loại cây có thể ăn được và ông đã dạy bà con ươm trồng thà nh các loại rau. Trong lúc đi săn bắn ông đã dùng chính cái miệng của mình để phát hiện ra các loại cây có thể chữa các loại bệnh thông thường. Không dừng tại đó, ông còn phát hiện sự phát triển của cây trồng không những phụ thuộc và o thời tiết mà còn quan hệ tới thổ nhườ¡ng đất đai. Có loại cây phù hợp với đất cát như dưa hấu, có loại cây chỉ phát triển nơi khô ráo hoặc có độ ẩm cao. Tất cả những hiện tượng quan sát được ông đửu ghi nhớ để truyửn lại cho bà con.
à”ng Đặng Mại và bà Hoa Nương sinh được hai người con trai, Đặng Văn Hiếu và Đặng Văn Ngãi (Nghĩa). Hai anh em khôi ngô tuấn tú được ông ngoại ở là ng Phan Xá nuôi ăn học, đến năm 995 khi Đại Hà nh hoà ng đế cho người đi tuyển mộ người tà i ra giúp nước, hai ông cáo từ ông bà ngoại và cha mẹ ra dự thi ở Hoa Lư, Phủ Trường Yên (Ninh Bình ngà y nay). à”ng Đặng Văn Hiếu được mời và o cung là m quan giữ chức Lục Phán (một chức quan nhử quản lý trong triửu). à”ng là người thông minh, tính tình cương trực, thẳng thắn, trung thực. à”ng chịu ảnh hưởng của nhà tư tưởng Khổng Tử, ông thuộc là u những kiến thức mà ông ngoại dạy bảo. Có lần ông ngoại hửi: Cháu còn nhớ gì vử Đức Khổng Tử mà tết năm ngoái ta dạy không? Đặng Văn Hiếu không những trả lời hết những gì ông dạy mà còn nói thêm rất nhiửu điửu mà ông đọc được ở sách. à”ng nói : Thưa à”ng ngoại, Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn của Trung Hoa thời cổ đại, nguyên là người nước Lỗ trong thời kử³ Xuân Thu. à”ng họ Khổng, tự là Trọng Nê, tên là Khưu, sinh năm 551 trước Công Nguyên. Tư tưởng học thuyết của ông đã có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Trung Hoa và à Đông. Tổ tiên của ông là quý tộc nước Tống, đến đời cụ nội ông lánh nạn nên chạy sang nước Lỗ. Cha ông là m quan Đại Phu ở Ấp Châu, nước Lỗ. Khi Khổng tử còn nhử thì cha qua đời, mẹ ông đưa con vử đô thà nh Khúc Phụ thuộc nước Lỗ sống một cuộc sống nghèo khổ. Khổng tử được hấp thụ nửn văn hóa Cổ lão của Đất Tống là con cháu đời sau của à‚n Thương và nước Lỗ lại là đất phong cảnh của Chu Công và o đầu nhà Chu. Cả hai nửn văn hóa nà y được kế thừa văn hóa Thượng Chu sinh ra một Khổng Tử vĩ đại.
Và o năm Kỷ Mão 979 Nam Việt Vương Liễn giết chết Hoà ng Thái Tử Hạng Lang. Nam Việt Vương là con trưởng của vua, lúc vua bình thiên hạ thì Liễn là người chịu gian khổ, nuôi chí cùng cha là m nghiệp lớn, sau khi khải hoà n vua có ý truyửn ngôi cho Liễn. Nam việt Vương được vua cha xin nhà Tống tấn phong. Nhưng khi Hoà ng Thái Hậu sinh thêm con nhử là Hạng Lang thì vua cha đổi ý và lập Hạng Lang là m Thái tử. Liễn ghen tức nên lập mưu giết chết Hạng Lang. Sử thần Ngô Sĩ Liên bà n: Nối ngôi dùng con Đích là đạo thường muôn đời, bử đạo ấy chưa từng không gây loạn. Cũng có khi nhân thời loạn mà lập Thái tử, thì trước hết chọn người có công hoặc con đích trưởng quá ác phải bử thì sau mới lập con thứ. Thế là xử việc lúc biến mà vẫn được đúng đắn, người xưa vẫn từng là m. Nam Việt Vương Liễn là con trưởng lại có công chưa bị lỗi lầm gì. Tiên Hoà ng yêu con thứ mà quên con trưởng, cho như thế mới tử tình yêu quý, không biết như thế mà là m hại con. Liễn lại nhẫn tâm, đến nỗi giết em, thiên đạo nhân luân mất hết, chuốc họa chết thiệt thân, còn liên lụy cả cha nữa, há chẳng rùng rợn lắm thay. Không phải thế tội ác của Đỗ Thích do đâu nảy ra để hợp với lời sấm được. Năm Thái Bình thứ 5 (974), sấm ngữ nói rằng : Đỗ Thích thí đinh đinh, Lê gia xuất thánh minh, cạnh đầu đa hoà nh nhi, đạo lộ tuyệt nhân hà nh. Thạp nhị xưng đại vương, thập ác vô nhất thiện, thạp bát tử đăng tiên, kế đô nhị thập thiên (Đỗ Thích giết hai Đinh, nhà Lê nổi thánh minh, tranh nhau nhiửu hoà nh nhi, ngoà i đường không bóng người. Loạn mười hai sứ quân, toà n ác không một thiện, mười tám con lên tiên, sao kế đô hai chục ngà y). Ngà y trước khi còn hà n vi nhà vua thường đi đánh cá, bắt ốc mò cua ở sông Giao Thủy, khi kéo lưới nhăt được hòn ngọc quý, không may va và o thuyửn sứt mất một góc. Đêm ấy nhà vua và o ngủ nhử ở chùa Giao Thủy đợi đến sáng mang cá đi bán,viên ngọc quý vua giấu dưới cái giử đựng cá. Ban đêm hòn ngọc phát ánh sáng rất lạ và đẹp, nhà sư chùa ấy gọi dậy hửi duyên cớ, vua nói thực và đưa ngọc cho sư xem, sư thà than rằng: Ngà y sau anh sẽ là người phú quý không ai bì kịp, thế nhưng phúc nhà anh không được bửn lâu. Đúng vậy, khi lên là m vua một thời gian nội bộ trong triửu rối ren như đã nói ở trên cho nên vua cha bị Đỗ Thích đang đêm giết hại, Nam Việt Vương Liễn cùng chung số phận với Thượng hoà ng. Như vậy Đinh Tiên Hoà ng ở ngôi được 12 năm, ông là vua sáng, tà i năng, mưu lược, dũng cảm nhưng chỉ vì mất cảnh giác mà không giữ được trọn đời. Định Quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điửn, Tập đạo tướng quan Lê Hoà n sau khi giết chết Đỗ Thích đã tôn Vệ Vương Toà n lên ngôi Hoà ng Đế lúc mới 6 tuổi. Lê Hoà ng tự xưng là phó Vương là m công việc nhiếp chính như Chu Công ( tên gọi là Cơ Đán, Thời nhà Chu Trung Quốc). Các quan đại thần như Nguyễn Bặc, Đinh Điửn... nghi ngại Lê Hoà n cướp ngôi nên đã dấy binh chống lại Lê Hoà n, việc không thà nh bị Lê Hoà n đánh bại. Nguyễn Bặc và một số Đại thần bị Lê Hoà n bắt sống và vu cho tội cướp ngôi. Lê Hoà n cho chém chết và bêu đầu.
Thời gian nà y đất nước gặp nhiửu nguy cơ bị xâm lược. Phía Bắc quân Tống nhòm ngó, phía Nam Phò mã Ngô Nhật Khánh phản nghịch rước quân Chiêm Thà nh và o cướp bóc. Vua nối còn bé nên nhiửu tướng lĩnh muốn tôn Lê Hoà n lên là m vua để đảm đương công việc của triửu đình. Được sự ủng hộ của các đại quan, Thái hậu Dương Vân Nga đã mời Lê Hoà n lên ngôi Hoà ng Đế. Giáng phong vua là m Vệ Vương. Việc nà y còn để lại cho hậu thế nhiửu lời bà n luận vử quan hệ lúc bấy giử của Lê Hoà n và Dương Vân Nga. Nhưng xét bối cảnh lúc bấy giử, giặc giả nổi lên khắp nơi, lại có nguy cơ bị ngoại quốc xâm lược cho nên việc lên ngôi của Lê Hoà n là kịp thời và ý của trời, vì chỉ có Lê Hoà n là m minh chủ thì đất nước mới tránh được họa xâm lăng. Sử thần Ngô Sĩ Liên cũng có lời bình trong Đại Việt sử ký toà n thư vử việc nà y, ông cho rằng là m sao tránh được sự dèm pha trong việc Lê Hoà n nhiếp chính. Lê Hoà n lên ngôi xưng là Đại Hà nh Hoà ng Đế.
Chuyện kể rằng, cha vua tên là Mịch, mẹ vua tên là Đặng Thị Sen, khi mới có thai bà họ Đặng nằm mơ thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ trong và i phút là hoa sen kết hạt, bà lấy chia cho mọi người, riêng mình không ăn. Đến ngà y rằm tháng 7 năm Thiên Phúc thứ 6 (năm 941) Lê Đại Hà nh chà o đời với dáng mạo khác thường. Bà Đặng Thị Sen nói với mọi người rằng: Thằng bé nà y lớn lên ta sợ không kịp hưởng lộc của nó. Được và i năm thì cả cha và mẹ đửu qua đời. Trong cơn hoạn nạn đói rét không có ai chăm nuôi thì Vua được một viên quan nhử người họ Lê nhận vử là m con nuôi, viên quan nà y hết lòng thương yêu coi như con đẻ của mình. Có đêm rét mướt vua úp cối ngủ, trên người phát ra một thứ ánh sáng lạ. Viên quan nhử lại gần xem thì thấy một con rồng và ng che ấp bên trên. Viên quan nà y thấy có điửm thiêng nên lại cà ng yêu quý Lê Hoà n.
Đặng Văn Hiếu học nhiửu vử môn sử và luôn theo dõi việc thời thế để có thể đem tà i mọn của mình ra giúp dân. Là Người có họ hà ng với bà Đặng Thị Sen là mẹ của vua Lê Đại Hà nh, cho nên khi nghe tin vua ra chiếu tìm người tà i, Đặng Văn Hiếu đã vử kinh xin được và o yết kiến. Đại Hà nh Hoà ng Đế đã phong Đặng Văn Hiếu giữ một chức quan nhử nhưng luôn coi ông là ngoại thích của mình. à”ng được các đời vua kế tiếp như Trung Tông Hoà ng Đế, Ngọa Triửu Hoà ng Đế trọng dụng bởi lòng trung thực và sự hiểu biết sâu sắc. Khi Ngọa triửu Hoà ng Đế băng hà , Lý công Uẩn lên ngôi đã phong ông giữ chức Thái Phó, một trong những vị trí chủ chốt của triửu đình.