Phồn sinh trường ca hơn mười ba vạn chữ

Paul Nguyễn Hoàng Đức| 19/09/2019 09:02

Tôi thực sự ngỡ ngàng và choáng khi cầm tập trường ca “Phồn sinh” viết trong 12 năm từ 1/2002 đến 1/2014 của nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu. Tác phẩm dày 710 trang, khổ 16x24, với 135.745 chữ, 13.127 dòng thơ, và không hề có một dấu chấm dấu phẩy nào, trừ dấu chấm kết thúc trường ca. Đó hẳn là một kỷ lục nghĩa đen bất khả cưỡng, khuất phục người ta theo cách kỷ lục Guinesse.

Phồn sinh trường ca hơn mười ba vạn chữ
Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu


Tôi gặp Nguyễn Linh Khiếu lần đầu ở báo Văn nghệ trẻ cách đây gần 20 năm. Ngày ấy chẳng hiểu sao những nhà văn, nhà thơ xung quanh bao giờ cũng xuýt xoa tán dương anh hết lời. Thỉnh thoảng Nguyễn Linh Khiếu cũng cao giọng phán truyền về văn thơ, giọng rất kẻ cả và khí phách.  Có lần Nguyễn Linh Khiếu hứng chí đọc trường ca “Ban mai Diêm Điền”, tôi liền hỏi: “Diêm Điền là gì?” Anh trả lời: “Diêm Điền là một cái thị trấn ven biển”. Tôi bảo: “Một cái thị trấn quê không đủ tầm vóc và tiêu chí cho một trường ca”. Nguyễn Linh Khiếu ấp úng... Tôi càng tin rằng anh chàng có lên gân hết cỡ cũng chỉ là cái gì “đuôi đuối”. Nhưng thật không ngờ, như người đời bảo nhìn quả biết cây. Tập trường ca “Phồn sinh” hơn 13 vạn chữ của anh, có vài người đã báo trước mà tôi không hề tin đã hiện diện trong tay và trước mắt tôi. 

“Phồn sinh”, tập trường ca của Nguyễn Linh Khiếu trải ra một chiều rộng mênh mông bề thế, nó bao gồm quê hương thổn thức, thẫn thờ, yêu dấu và cay đắng, mở ra vẻ đẹp của vũ trụ lộng lẫy, huy hoàng, thiên nhiên tươi thắm sinh sôi nảy nở và u hoài đắm đuối, nối sang những vấn đề bức thiết của con người, giá trị con người như tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng, yêu dấu, thiện ác, tốt xấu, tàn bạo, độc tài, quần chúng và vĩ nhân, chiến tranh và hòa bình, vinh quang và điếm nhục, hạnh phúc và cay đắng... Trong trường ca này, Nguyễn Linh Khiếu đã mở tay hết sở trường tiến sĩ triết học của mình, anh khai mở, diễn dịch, lật xới, luận bàn, minh định, phán quyết trôi chảy từng chi tiết những vấn đề triết lý.

Với chiều rộng, “Phồn sinh” rất mênh mông, nhưng chiều rộng đó không bị xem là cấu trúc lan man để thay thế chiều dọc. Tập trường ca đi xuyên suốt từ một tình yêu. Một tình yêu nửa thực nửa hư vào lúc Nguyễn Linh Khiếu mở màn nghiên cứu đạo Islam. Trên hành trình tình yêu đó, thi nhân, triết gia không bỏ lỡ cơ hội nào để nhìn ngắm vũ trụ cũng như đưa ra những câu thơ triết lý về vũ trụ, thiên nhiên, con người, tôn giáo và văn hóa... Nhà thơ mở màn trường ca như một xuất sắc của vấn đề triết học:

“vì sao ta sinh ra trong cõi đời này/ ta sinh ra mang thông điệp gì/ ta sinh ra với sứ mệnh gì” 
Nhà thơ tả quê hương xứ sở của mình:

“ta sinh ra nơi mở cửa sông Hồng/ nước rực đỏ cuồn cuộn dâng trào hùng tráng những bến bờ/ nước hơi phới ngập tràn cồn cao sinh lực/ nước dựng đứng kiên cường phấp phồng sức sống”

Phồn sinh trường ca hơn mười ba vạn chữ
Nhưng trong cái nhìn về khung cảnh tươi tắn lộng lẫy của châu thổ sông Hồng, nhà thơ luôn chất chứa một dư vị ngậm ngùi sâu thẳm về sự nghèo khổ của những dân quê chân chất.

Nhà thơ tả chiến tranh dài không dứt, không thể ra nổi quỹ đạo vòng tròn của cuộc chiến như một chiếc đèn cù. Và tác giả không lấp liếm che đậy nhãn quan của mình về chiến tranh. Với Nguyễn Linh Khiếu, dù ai vinh quang, ai bi tráng, ai chiến thắng, ai thất bại thì cuối cùng nhân loại đều thua tuyệt đối.

Nhà thơ cũng liên tưởng và nhìn sâu xa hơn vào nguồn gốc khởi động của cuộc chiến. Cái nhìn phản chiến của tác giả thật quyết liệt, rõ ràng, đó chính là nhãn quan bảo vệ cuộc sống, xua đuổi tẩy chay chiến tranh, để khao khát hòa bình cho cuộc sống. 

Đứng trước một cô gái xinh đẹp, nhà thơ không bao giờ đơn giản coi đó là nhan sắc, mà anh ngắm nàng như một tấm gương, một hình ảnh tha nhân, cũng như tưởng qua nhân loại mà mình đối diện để thấy cuộc sống mang nhiều ý nghĩa nhân văn hơn.

Cuộc đời càng đẹp, càng khao khát, càng đắm đuối yêu đương nồng nàn, càng hừng hực sức sống luyến ái của phồn sinh thì tác giả càng nhìn thấy những nguy cơ của chiến tranh và bạo lực bóp nát cuộc đời. Nhà thơ không chỉ đau đáu về số phận lay lắt, yểu mệnh, tang thương của nhân loại trong cuộc chiến, mà anh còn thao thức về giá trị con người được nâng từ hàng nô tài lên con người tự do làm chủ vận mệnh của mình. 

Một thời đại, một thế giới sẽ xấu xa, ô trọc nếu không có tình yêu. Không có tình yêu, tâm hồn con người sẽ không được hoán cải, sẽ trở nên thô kệch, quê mùa, không thể nào với tới cái đẹp, nhà thơ tự nhận ra: Có tình yêu, tình yêu với nàng sẽ tinh chế cả thể xác lẫn tâm hồn của thi nhân. Và từ nay thi nhân bắc một nhịp cầu tình yêu nối vào giữa tha nhân cùng nhân loại. Lúc đó tình yêu không đơn giản là tình yêu đôi lứa nữa mà nó biến thành quốc lộ tình yêu của cá nhân đi vào nhân loại.

Một trường ca vạm vỡ, với tầm vóc như vậy, chúng ta không thể không bàn đến bút pháp. Rõ ràng, trong trường hợp cụ thể này, tác giả phải chịu đựng cái nhìn ráo riết chặt chẽ của một cửa ải, khó như con lạc đà chui qua lỗ kim.

Thi ca theo truyền thống phương Tây không có cách nghĩ “quí hồ tinh bất quí hồ đa” như thơ phương Đông. Ở phương Tây, thơ ngắn nhất có lẽ là thể sonnet, là 14 câu. Trong khi đó, tứ tuyệt chỉ có 4 câu. Hoặc Haiku ở Nhật Bản chỉ có 2 câu. Có một trào lưu thi ca Âu - Mỹ quan niệm: thi ca là hãy viết, viết tuôn chảy ào ạt, viết xô dạt giấy mực, cho đến khi nào không viết được nữa thì thôi. Đây chính là cách mà thi nhân Nguyễn Linh Khiếu đã sử dụng trong trường ca “Phồn sinh” của mình. Anh viết không chỉ tuôn trào trôi chảy toàn bộ năng lượng cảm xúc, mà đôi khi tuôn trào hết từ tư tưởng đến tri thức, đến tất cả các cái nhìn, cách quan niệm, triết lý về cuộc đời, về vũ trụ, tình yêu, nhân sinh, chiến tranh, hòa bình, quyền lực, vinh quang, tự do, dân chủ, nữ quyền, tội ác và độc tài...

Đây vừa là thế mạnh, nhưng cũng chính là hạn chế của tác phẩm. Một mặt nó bày tỏ được rất nhiều cảm xúc, ngôn từ và ý tưởng vạm vỡ, lớn lao, đằng khác, nó bị lê thê, dài dòng, gây mất tập trung.

Đó là nhược điểm hình thức, nhưng nhìn kỹ nó chính là nhược điểm bắt nguồn từ khả năng hạn chế lôgic của tác giả, một hạn chế phổ biến của các nhà thơ Việt Nam. Đa số các nhà thơ Việt khi viết trường ca thường thiếu vắng cái thiết yếu của lôgic, đó là nhân vật và cốt truyện xuyên suốt. Khi đó làm cho tập trường ca giống như một tổ hợp rời rạc, lắp ghép vào nhau thành một thứ “collection”.

Nhưng tại sao tác giả lại chọn lối viết này? Đó là cách anh muốn bứt phá, chạy vượt đà, và nhảy vọt khỏi thói quen làm thơ vẫn đeo dính, bám chặt lấy hầu hết các nhà thơ của quê hương. Và, Nguyễn Linh Khiếu bằng một nỗ lực phi thường trong 12 năm liên tục đã chạy vượt thoát ra khỏi quán tính bút pháp cũ kỹ của quê hương.

Rút cục tập trường ca “Phồn sinh” là gì? Ít nhất về độ dài, nó đạt tới độ dài, độ đồ sộ của các chủ đề tư tưởng như cuộc sống, tình yêu, chiến tranh, hòa bình, cái ác, cái thiện, độc tài, tự do, dân chủ, bình đẳng, chính nghĩa, phi nghĩa... Ở mức xum xuê nhất, không chỉ nằm trong phạm vi biên giới quốc gia mà còn có tham vọng lan tỏa ra ngoài thế giới.

Thứ hai, nó đã vượt thoát thành công, cũng như chia tay với thói quen, tập quán bút pháp viết những đẽo gọt, bé nhỏ, xinh xinh, đăng đối. Với “Phồn sinh” Nguyễn Linh Khiếu đã đạt tới một ý tưởng vạm vỡ và tiên phong. Bằng nỗ lực khó tin với 710 trang in khổ lớn và hơn 13 vạn chữ, hơn 13 ngàn dòng thơ, nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu chí ít đã văng ra rất xa, có thể khẳng định là, đã văng cực xa khỏi truyền thống viết ngàn đời “uống rượu làm thơ”, “rải chiếu làm thơ”, “thơ đối đáp, thù tạc”, “ngâm ngợi’’, “giải khuây”…

Đó là hai điểm chính tôi rút ra từ trường ca này. Nhưng để tìm hiểu thêm những cái hay (hoặc dở) của nó, mời bạn hãy tham gia khám phá công trình hơn 13 vạn chữ của nhà thơ, Phó Giáo sư, Tiến sĩ triết học Nguyễn Linh Khiếu. Tôi xin nói thêm đây không đơn thuần là một tập trường ca như ta vẫn quan niệm mà “Phồn sinh” chính là một sự tích hợp nhuần nhuyễn, hài hòa giữa thơ - văn xuôi - triết học. Tôi tin rằng, khi đọc tập trường ca này, bạn sẽ tự chiêm nghiệm và thấy được rất nhiều điều hơn những gì mà tôi khảo cứu và luận bàn ở trên.
(0) Bình luận
  • Họp lớp
    Tôi bước vào lớp, có lẽ tôi là người đến cuối cùng, bởi trong lớp đã kín gần hết chỗ ngồi, chỉ còn trống một chỗ ở cuối dãy bàn bên phải. Hơi ngượng vì đến muộn nên tôi ngần ngừ trước cửa mấy giây.
  • Sen quán
    Loay hoay mãi chị mới cởi nổi bộ khuy áo. Cái áo cánh nâu bà ngoại để lại. May sao áo của bà không chỉ vừa mà như muốn vẽ lại những đường cong đẹp nhất của chị. Chị là người Hà Nội. Mẹ không biết cụ tổ đến Hà Nội từ bao giờ mà chỉ biết và kể chuyện từ đời ông bà ngoại. Rằng ông ngoại từng là nhà buôn vải lụa còn bà là ca nương ca trù nổi tiếng ở đất kinh kỳ.
  • Một giấc mơ xa
    Vân nằm duỗi chân ở sofa, nghe đài mà hai con mắt cứ ríu lại. Jim và Coen vừa theo bố chúng ra ngoài. Ở thị trấn này, trẻ em và những chú cún luôn được thỏa thích dạo chơi. Ánh nắng của buổi sáng đẹp trời chiếu xuyên qua tấm rèm cửa khiến Vân không nỡ ngủ vùi. Cô sống cùng gia đình chồng ở một vùng phía đông Hà Lan, nơi mà cuối tuần nghe nói mình đi dạo là biết sắp được chở vào rừng. Sáng này nếu không thấy mệt trong người thì cũng đã…
  • Trên đỉnh gió
    Không lãng mạn như hình dung, chiếc tàu chở Lam từ bến cảng thành phố ra đảo chính là “tàu há mồm” có niên đại còn nhiều hơn tuổi của cô. Thủy thủ trên tàu lại càng không như cô vẫn thường tưởng tượng về những chàng lính hải quân đẹp trai, từng trải với trái tim nồng nàn và tâm hồn cực kì bay bổng.
  • Tàu xuôi ra Bắc
    Ba năm trước, tôi gặp Trang trên chuyến tàu mang số hiệu SE đang di chuyển từ miền Nam ra miền Bắc. Lúc đó, tôi ngồi đối diện với Trang ở toa ghế ngồi - toa thường dành cho người đi chặng ngắn. Trong toa xộc lên mùi thuốc lá, mùi dầu gió xanh, mùi bồ kết phảng phất từ mái tóc của mấy người đàn bà và mùi của vô số thứ hàng hóa trên sàn toa.
  • Những hòn đá
    Không ai biết tại sao những người lạ lại chuyển thẳng vào cư trú trong cái làng bẩn thỉu, gồ ghề những đá là đá và quanh năm gió quật. Vợ chồng người lạ nọ đã mua một lâu đài đổ nát nằm trên đồi, sừng sững ở đó từ thuở ấu thơ của họ, và nó thuộc về ngôi làng.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Video] Sóng lụa làng nghề Vạn Phúc
    Là một trong những làng nghề thủ công ra đời sớm nhất vùng Đồng bằng sông Hồng cũng như cả nước, làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông) là làng nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng từ xa xưa. Nhiều mẫu hoa văn của lụa Vạn Phúc từng được chọn may quốc phục dưới các triều đại phong kiến. Ngày nay, ngoài việc gìn giữ, phát huy giá trị của nghề truyền thống qua các sản phẩm, làng lụa Vạn Phúc còn là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách trong nước và quốc tế.
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Triển lãm "Cộng đồng kiến tạo": Vinh danh những đóng góp giá trị cho xã hội
    Sáng 22/11, tại sân Bái Đường, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã diễn ra Triển lãm "Hành động vì cộng đồng" - Human Act Prize 2024 với chủ đề “Cộng đồng kiến tạo”.
  • Đồng chí Nguyễn Việt Phương giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội
    Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Thanh Trì Nguyễn Việt Phương được điều động đến công tác tại Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội, giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy khóa XVII.
Đừng bỏ lỡ
Phồn sinh trường ca hơn mười ba vạn chữ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO