Tác giả cũng tâm sự, trong cơn mưa gió lớn của đời người ấy, chính thi ca, cái đẹp và lẽ phải đã cứu rỗi anh. pV có cuộc phửng vấn tác giả Tổ quốc nhìn từ biển vử tập thơ nà y.
Là m mới không gian thơ lục bát
- Thơ vốn thường đọc chậm, những người đến với thơ cũng thường với tâm thế chậm rãi, sao anh còn phải lưu ý họ đọc chậm ngay từ tên tập thơ mới?
- Người đọc thơ hôm nay thường rất ít khi đọc kử¹ một tập thơ đáng đọc, đọc kử¹ một tác giả cần đọc, họ thường đọc lướt qua các trang thơ, bởi thế thể loại văn học ý tại ngôn ngoại nà y đang mất dần đất sống trong tâm thế con người hiện đại. Cũng có thể, bởi thời gian qua, thơ lạm phát như tiửn giấy, người người là m thơ, nhà nhà in thơ mà in toà n loại thơ là ng nhà ng nên số lượng thơ in thì nhiửu quá mà chất lượng thơ thì xuống quá. Do vậy, người đọc bử thơ đi khá nhiửu. Đây là một thực trạng, nhưng có lẽ chúng ta cũng không cần quan tâm vấn đử nà y, bởi chỉ có những bà i thơ hay, những tập thơ hay mới đọng lại được qua thời gian. Tên đử tập thơ của tôi là Trăng và thơ đọc chậm với ý tưởng: Trăng là cái đẹp, thi ca nhiửu khi cũng mang vẻ đẹp của trăng và cách sống chậm, đọc chậm, cảm nhận chậm khi thưởng ngoạn vẻ đẹp của trăng và thi ca có lẽ sẽ giúp chúng ta phát hiện được nhiửu điửu thú vị hơn nhất là trong đời sống đô thị công nghiệp ngột ngạt, xô bồ hôm nay.
- Tạo nhịp điệu cho thơ bằng những dấu chấm là cách anh quen dùng. Anh có thể nói rõ hơn vử thủ pháp nà y?
- Trong những bà i thơ lục bát của tập Trăng và thơ đọc chậm tôi thường dùng dấu chấm để tạo nhịp điệu cho mỗi câu thơ. Những năm qua, người đọc đã quen với lối thơ lục bát mới, thường bẻ câu, xuống dòng để tạo nhịp điệu ví như đoạn thơ sau:
Đêm Mưa Gặp Nguyễn Trên sông Đầu đội nón lá Chân không mang già y à”ng ra câu cá Sông nà y Một chiếc cần trúc Phất đầy mưa đêm à”ng Dốc bầu rượu Tưới lên Dòng sông mặt sách Còn thiêm thiếp nằm Các người ngủ Suốt trăm năm Nguồn thơ đã cạn Nguồn văn đã mòn
Với kiểu thơ lục bát bẻ câu, xuống dòng như trên, nó cũng đã tạo ra một hiệu ứng là m mới không gian thơ lục bát. Tương tự như thế, nhưng tôi không bẻ câu, không xuống dòng, tôi vẫn giữ nguyên khổ thơ truyửn thống trên sáu chữ, dưới tám chữ và dùng dấu chấm để ngắt và biến đổi nhịp thơ theo kiểu:
Đêm. Mưa. Gặp Nguyễn. Trên sông Đầu đội nón lá. Chân không mang già y à”ng ra câu cá. Sông nà y Một chiếc cần trúc. Phất đầy mưa đêm à”ng. Dốc bầu rượu. Tưới lên Dòng sông mặt sách. Còn thiêm thiếp nằm Các người ngủ. Suốt trăm năm Nguồn thơ đã cạn. Nguồn văn đã mòn
Với những câu thơ lục bát dạng nà y, người đọc thường phải đọc chậm lại vì mỗi một đơn vị chữ khi đứng độc lập lại thường có sự ngân vang và liên tưởng riêng của nó. Và tôi coi đấy như một thủ pháp mới của mình để là m mới thơ lục bát. Vì thực ra, với thể thơ cổ điển nà y, sự mòn mửi quen thuộc vử mặt nhịp điệu thi pháp trong cả trăm năm qua cũng đã đến lúc cần phải có những chuyển đổi mới vử mặt cấu trúc nhịp điệu câu thơ để có thể tạo ra một âm hưởng là m tươi mới thơ lục bát mà vẫn không là m mất đi vẻ đẹp quyến rũ truyửn thống của nó.
Trang bìa tập thơ mới của Nguyễn Việt Chiến. |
- Ta đã chìm rất sâu trong một đêm mưa lớn / không ai đến được với ta / nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia / ta vẫn nhận thấy hơi ấm của em.... Đọc những câu thơ anh viết người ta rất dễ liên tưởng đến chuyện đời, nhất là những gì anh đã trải thời gian qua. Anh có thể nói rõ hơn vử hình tượng em trong đoạn thơ trên?
- Trăng nơi đáy sâu là một bà i thơ tình viết ở giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời cầm bút của tôi. Em trong bà i thơ nà y được ví với ánh trăng, với cái đẹp và dĩ nhiên được ví với thơ. Nhưng có lẽ chỉ có nhà thơ nà o buộc phải sống ở nơi tận cùng của đáy sâu kia mới có thể cảm nhận được vị mằn mặn của ánh trăng, thứ ánh sáng không bị hủy hoại bởi bùn tối của những đáy sâu. Và như tôi đã tâm sự trong bà i thơ nà y, khi ở nơi tận cùng đáy sâu kia, tôi đã được cứu thoát bởi chất muối ấy.
Nỗi đau lớn sinh ra những bà i thơ lớn
- Ta nói điửu nà y cho anh biết. Chỉ có trong những đêm mưa lớn của đời người như anh đang từng trải qua, người thơ mới có thể ra sông văn câu được những bà i thơ, tứ thơ, những câu chuyện văn chương hay nhất trong cuộc đời cầm bút của mình.... Đó là một đoạn lời của Nguyễn Du trong bà i mở đầu tập Trăng và thơ đọc chậm mới ra mắt của anh. Có vẻ như nó cũng giống một lời tự vấn vử nghử. Anh nghĩ sao?
- Giấc mơ gặp cụ Nguyễn Du đi câu trên sông đêm là một giấc mơ có thật trong chuỗi ngà y hoạn nạn gặp tai nạn nghử nghiệp báo chí của tôi. Cũng từ giấc mơ kử³ lạ đêm mưa lớn ấy, tôi viết được bà i thơ lục bát Gặp Nguyễn Du trên sông đêm với những câu thơ không thể viết được lần thứ hai trong đời. Sau nà y khi đọc bà i thơ của tôi in trên báo, một nhà thơ nói vui: Mình cũng muốn và o trong ấy ít ngà y để thử viết một bà i thơ như vậy xem có được không?. Tôi cười bảo: Ấy là ông nói vui như vậy, chứ và o thì cũng khó lắm mà ra thì còn khó hơn nhiửu!?. Đúng ra, lời khuyên của cụ Nguyễn Du đối với tôi trong giấc mơ đêm ấy như một sự động viên, vỗ vử, an ủi đối với một người thơ đang gặp hoạn nạn, tôi nghĩ như vậy và có vẻ nó cũng giống như một lời tự vấn vử nghử như bạn nói, bởi tôi cho rằng nỗi đau lớn thường sinh ra những bà i thơ lớn.
- Cũng trong tập thơ mới nhất của anh có một số bà i ở thể loại truyện-ngắn-thơ khá lạ. Đây là một bắc cầu để Nguyễn Việt Chiến chuyển sang văn xuôi?
- Hoà n toà n không có chuyện bắc cầu để chuyển sang văn xuôi. Trong tập Trăng và thơ đọc chậm của tôi có 4 bà i ở thể loại Truyện-ngắn-thơ (tôi cứ tạm gọi như vậy) là các bà i: Gặp Nguyễn Du trên sông đêm, Sự nổi loạn của tranh, Nước mắt của trăng, Mùi Tiên. Đây là những bà i thơ viết theo dạng truyện ngắn, cả câu chuyện là một bà i thơ, được kể lại bởi một nhà thơ không hử có ý định là m văn xuôi trong thơ. Chất thơ và nhạc điệu của thơ trong 4 truyện-ngắn-thơ nà y chính là cái chất - nửn của những câu chuyện mở ra một không gian thơ kể cả vử hình ảnh, sự suy tưởng và chiêm nghiệm. Tôi đang có ý định sẽ viết tiếp những truyện-ngắn-thơ như vậy.
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến. |
- Phùng Quán từng viết Có những phút ngã lòng / Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy, còn anh, trong những thời khắc sóng gió đời người, ngoà i thơ, điửu gì khiến anh có đủ niửm tin và nghị lực sống?
- Có thể nói tôi đã vượt qua được những thời khắc khó khăn ấy bằng một niửm tin lớn, bằng một khát vọng sống mãnh liệt rằng thi ca và cái đẹp, và lẽ phải sẽ cứu rỗi con người như những câu thơ tôi đã viết trong bà i Gửi bạn bè trong tập Trăng và thơ đọc chậm: Xin đừng hửi vì sao ta gục ngã/ Ta yêu thương như Mẹ - núi sông nà y/ Khi ngay thẳng sống là m người thật khó/ Ta dọn mình cho bữa tiệc đắng cay/ Xin đừng hửi vì sao ta phải sống/ Ta bản năng không chay tịnh thánh thần/ Ta bụi bặm ta hồn nhiên đến thở/ Trên chiếc giường của mộng mửµ ăn năn/ Khi số phận chọn ta là m ngọn bút/ Phất lên đầu sóng dữ một bà i ca/ Ai biết được ta sẽ chìm tận đáy/ Rồi vượt lên bao bất hạnh, trầm kha/ Ngà y lại ấm từng câu thơ con viết/ Mùa vẫn dà i trong mắt mẹ buồn thương/ Khi mẹ nhắc chiửu muộn rồi-con biết/ Bà i thơ kia đã ở sát chân tường/ Khi bạn hửi bóng tôi trên mặt sách/ Câu thơ nà o viết dưới đáy thời gian/ Trong tuyệt vọng chỉ còn thơ là bạn/ Chỉ còn thơ cứu rỗi mọi suy tà n/ Nghe bạn hửi bóng hoa trên mặt sách/ Mùi hương nà o thấm đẫm một chia phôi/ Mai hay cúc, hay thuỷ tiên tưởng tượng/ Bóng hoa đen ám ảnh chúng ta rồi/ Trên gương mặt thời gian năm tháng ấy/ Có một phần gương mặt của chúng tôi/ Trán kiêu hãnh mang vẫn thơ hy vọng/ Dẫu trái tim đa cảm bị thương rồi.
- Từng đoạt giải nhì cuộc thi thơ hay vử biển năm 1992, có vẻ như cảm hứng sáng tác vử biển xuất hiện trong anh từ khá sớm. Gần đây anh cũng có nhiửu bà i thơ được sự cộng hưởng của đông đảo bạn đọc như Tổ quốc nhìn từ biển, Đất nước thời gian lao, sao anh không lấy tên những bà i thơ nà y để đặt cho tập thay vì cái tên khá cổ điển Trăng và thơ đọc chậm?
- Đúng là cảm hứng sáng tác vử biển đã xuất hiện trong thơ tôi khá sớm, cách đây hơn 20 năm, tôi bắt đầu bằng bà i thơ dà i Những cư dân của biển cả đăng trên báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn VN năm 1991 với những câu thơ: Những cư dân của biển cả/ Chim trời và các bạn là một phần của tự do/ Sóng ngầm và các bạn là một phần sức mạnh của trái đất/ Cá và mồ hôi của các bạn nuôi dườ¡ng cuộc đời nà y/ Muối của các bạn là kết tinh mặt trời và nước mắt/ Ngọc trai của các bạn là ánh sáng được nuôi từ nỗi đau... và bà i thơ Biển chiửucủa tôi đã được trao giải nhì cuộc thi thơ hay vử biển năm 1992. Đến thời gian gần đây, bà i thơ Tổ quốc nhìn từ biển (bà i thơ đầu tiên khi tôi trở lại cầm bút) đã nhận được sự cổ vũ của hà ng triệu độc giả trong và ngoà i nước, còn bà i thơ Tổ quốc bên bử biển cả của tôi đã được trao giải nhì của cuộc thi thơ nhạc Đây biển Việt Nam đầu năm 2012. Có thể nói, đử tà i biển đảo đã trở đi, trở lại trong thơ tôi suốt hai chục năm qua với rất nhiửu trăn trở và tôi sẽ tiếp tục viết vử đử tà i nà y, trước mắt, tôi đang hoà n thà nh một trường ca vử biển. Còn tôi đặt tên tập thơ mới là Trăng và thơ đọc chậm là vì trong tập có gần một chục bà i thơ tôi viết vử trăng và nhiửu bà i tôi viết theo kiểu thơ-đọc-chậm.