Đi B

Phạm Xuân Nguyên| 02/09/2019 10:34

Có ai nhớ hai tiếng “Đi B” một thời? Có ai nhớ một thời “Đi B”?

Đi B

Có ai nhớ hai tiếng “Đi B” một thời?
Có ai nhớ một thời “Đi B”?

Thời đó, thời kháng chiến chống Mỹ, cả đất nước dồn hết sức lực của cải tính mạng tài sản cho những chiến trường được định danh bằng các chữ cái tiếng Việt. Hậu phương miền Bắc là A, chiến trường miền Nam ở bên kia vỹ tuyến 17 gọi là B. “Đi B” là vào Nam, là ra chiến trường, là trực tiếp giáp mặt đạn bom, chiến đấu với kẻ thù. Trong những đoàn người đi B không chỉ có quân đội, những người lính trực tiếp cầm súng đánh giặc, mà còn có các đoàn cán bộ quân dân chính đảng đi vào để phục vụ cho muôn mặt đời sống của cả chiến trường rộng lớn miền Nam. Ông Lê Quang Thưởng là người có mặt ở trong những đoàn đi đó cách đây đúng nửa thế kỷ.

Những bài thơ ở đây được ông viết ra khi đó như một cách ghi nhật ký trên chặng đường “Đi B” hành quân từ Bắc vào Nam, đi qua các địa danh, trải qua các thử thách. Ông chắc không nghĩ mình là nhà thơ nhưng ông hẳn nhiên có tâm hồn thơ để kịp ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ của mình dưới dạng thơ, trong những câu có vần điệu, nhịp điệu, hình ảnh, và trên hết là có tấm lòng của một con người đối với đất nước, nhân dân rất rộng lớn và cũng rất cụ thể trong những tháng ngày khốc liệt của chiến tranh. Nhờ tâm hồn thơ đó khi qua vùng lửa khu Bốn ác liệt trong đêm tối ông vẫn nhìn ra Non Hồng một giải xanh mờ/ Đẹp như nét vẽ truyện thơ nàng Kiều. Khi ngủ giữa rừng Lào ông vẫn nghe thấy Sương reo nhạc lá cành lúc trăng đã khuất núi. Và ông sững sờ trước vẻ đẹp cô dân quân Lào Tóc xõa/ Ngực trần/ Váy bó sát thân.

Sau năm mươi năm những câu chữ nằm im trong sổ tay và ký ức, người cán bộ trẻ hồi nào vào Nam sau này từng làm đến Phó Trưởng ban Thường trực Ban tổ chức Trung ương Đảng nay đã về hưu, bỗng lần giờ đọc lại và thấy sống lại cả một thời hào hùng lãng mạn của dân tộc và của chính mình. Đó là thời:

Ta hạnh phúc được làm người chiến sĩ
Ngày cùng đánh giặc, đêm tập làm thi sĩ
Viết những vần thơ xây mộng đẹp cho đời
Làm sáng lên những gương mặt bao người!

Theo từng câu thơ, bài thơ ở đây, ta bước đi cùng bàn chân của ông cán bộ đảng Lê Quang Thưởng từ khi tạm biệt người vợ một chiều thu Hà Nội, qua suốt miền Trung, qua cả đất bạn Lào, cho đến nơi tập kết là Nam Bộ, rồi có khi dạt cả sang Campuchia. Ông tự hào mình trong hình ảnh các chàng trai “Đi B”: Quần vợ/ Mũ con/ Nước suối/ Cơm lon/ Nhà tăng/ Giường võng/ Gậy Trường Sơn/ Dép lốp Hà Trung/ Súng ngắn đeo hông/ Bi đông, ca Mỹ/ Tạo dũng khí kẻ lên đường! Một bức chân dung cụ thể, đúng thực của mỗi người đi B, phổ biến một thời, nên cũng có tính biểu tượng một thời. 

“Đường ra trận mùa này đẹp lắm” - câu thơ của Phạm Tiến Duật nên hiểu là cái đẹp của tâm hồn người ra trận, dù phải trải qua bao nhiêu thử thách, nguy nan, cái sống, cái chết kề nhau. Những vần thơ mộc mạc, chân thật của Lê Quang Thưởng cũng vậy: ông nói đến những khó khăn, nguy hiểm mình đã vượt cũng chỉ nói lên cái đẹp của những đồng bào đồng chí ông gặp trên đường, cùng ông chia sẻ cuộc chiến đấu, để tự động viên khích lệ mình sống cho cao đẹp, xứng đáng với nhân dân, đất nước. Với cả cô con gái đầu lòng mà ông nhận được tin con ra đời sau bốn tháng khi đang ở căn cứ biên giới Tây Ninh một ngày tháng mười 1968:

Con ra đời lúc cha đã đi B
Bước nghìn dặm Trường Sơn xa ngái
Chưa biết mặt là trai hay gái
Lòng lâng lâng lớn mãi niềm vui.

Trong hoàn cảnh chiến tranh ở chiến trường có những dao động, muốn lùi bước, nhưng ông tự nhủ mình: Đói không thèm, thiếu không tham/ Không ngon lành khi ăn miếng thịt hôi/ Không vui gì hơn khi xơi miếng cơm nắm chia đôi/ Ta phải giữ lòng ta trong sạch. Chính tinh thần nghị lực đó và tâm hồn thơ đã nâng bước chân ông, cho ông sức mạnh để trụ lại chiến trường và hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Tập thơ - nhật ký này của Lê Quang Thưởng chỉ có 20 bài. Hẳn là đây đó ông còn có những bài khác, nhưng tác giả gom lại từng ấy kèm những lời dẫn dắt, chú giải về hoàn cảnh viết từng bài, in thành tập thơ như giữ lại một kỷ niệm, một hồi ức. Kỷ niệm của một cá nhận, một quãng đời, trong một thời. Quãng đời “Đi B” thời chiến tranh. Tôi tin mỗi người lính, mỗi cán bộ “Đi B” hồi ấy đều có những nhật ký, hồi ức như thế này, dù có công bố ra hay để lại riêng mình. Đọc “Đi B” của Lê Quang Thưởng là đọc một cách sống thơ để chia sẻ cùng tác giả sự thấu nghiệm không chỉ có lúc ấy: Không khi nào nhớ thương người thân bằng lúc xa nhà/ Không khi nào buồn bằng cảnh mưa rừng/ Không khi nào mệt bằng lúc leo dốc/ Không khi nào khổ cực bằng lúc đau ốm giữa đường trường! (Đêm 7/8/1968, trên đất Nam Lào).

Và như vậy giữa đời thường hôm nay người ta vẫn nhiều khi cần lại một lần “Đi B”.
Bài liên quan
  • Từ phim thị trường đến phim nghệ thuật: Đâu là hướng đi bền vững cho điện ảnh Việt?
    Những năm gần đây, điện ảnh Việt Nam chứng kiến sự bùng nổ của các bộ phim thương mại với doanh thu trăm tỷ, tạo nên những cơn sốt phòng vé. Tuy nhiên, bên cạnh những con số ấn tượng về doanh thu, chất lượng nghệ thuật của những bộ phim này vẫn là chủ đề gây tranh cãi. Đồng thời, việc quá tập trung vào dòng phim giải trí cũng để lại một khoảng trống lớn cho các bộ phim về lịch sử, chiến tranh - những tác phẩm mang giá trị văn hóa và tinh thần dân tộc. Thực tế này đặt ra những thách thức cho điện ảnh Việt, đòi hỏi cần một chiến lược phát triển dài hạn, cân bằng giữa yếu tố thị trường và nghệ thuật để không chỉ phát triển bền vững mà còn khẳng định vị thế trên bản đồ điện ảnh thế giới.
(0) Bình luận
  • Trao giải 11 tác phẩm xuất sắc “Truyện ngắn Sông Hương 2024”
    Ban tổ chức đã trao giải 11 tác phẩm xuất sắc cho cuộc thi “Truyện ngắn Sông Hương 2024” do Tạp chí Sông Hương phát động.
  • Thiền đào
    Chàng vẫn âm thầm dõi theo những bài viết của nàng và không bỏ sót bất kỳ phóng sự nào về nàng. Đôi mắt nàng khi bảy tuổi hay của bây giờ vẫn vậy. Xoáy xiết, ám ảnh. Nhấn chàng xuống đỉnh vực. Vẫy vùng. Ngộp thở. Toàn thân không trọng lượng. Đôi vực sâu đồng tử đã xoáy chàng đến một nơi quen thuộc. Là dinh đào, khi ấy chàng đang ở tuổi mười ba.
  • Ăn Tết nay yêu Tết xưa
    Đợt rét ngọt đầu tiên của tháng Chạp đã luồn qua khe cửa, bà Ngân thoáng rùng mình khi trở dậy vào sáng sớm. Loẹt quẹt đi xuống bếp, rót đầy một cốc nước gừng nóng sực đã ủ sẵn trong bình, bà vừa xuýt xoa uống vừa nhẩm tính xem Tết năm nay nên sắm sửa những thức gì. Kỳ thực, quanh đi quẩn lại, năm nào bà cũng bày biện từng ấy món quen thuộc. Nhưng cái việc nôn nao nghĩ suy về cái Tết sắp đến mới ngọt ngào làm sao, nhất là khi năm nay gia đình bà có thêm cô con dâu mới.
  • Lễ phạt vạ
    Ba ngày nữa là đến giao thừa mà Cầm Bá Cường chưa thể về nhà. Đã vậy anh còn mắc vạ trưởng bản, phải chịu phạt. Ký túc xá giáo viên ở Mường Lôm giờ đây còn mỗi mình anh. Ôi chao là buồn! Cầm Bá Cường nhìn ra khoảng sân ký túc xá.
  • Họp lớp
    Tôi bước vào lớp, có lẽ tôi là người đến cuối cùng, bởi trong lớp đã kín gần hết chỗ ngồi, chỉ còn trống một chỗ ở cuối dãy bàn bên phải. Hơi ngượng vì đến muộn nên tôi ngần ngừ trước cửa mấy giây.
  • Sen quán
    Loay hoay mãi chị mới cởi nổi bộ khuy áo. Cái áo cánh nâu bà ngoại để lại. May sao áo của bà không chỉ vừa mà như muốn vẽ lại những đường cong đẹp nhất của chị. Chị là người Hà Nội. Mẹ không biết cụ tổ đến Hà Nội từ bao giờ mà chỉ biết và kể chuyện từ đời ông bà ngoại. Rằng ông ngoại từng là nhà buôn vải lụa còn bà là ca nương ca trù nổi tiếng ở đất kinh kỳ.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Đi B
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO