Đúng thế, ở bà i nà y Phan Khôi hiện diện như một nhà phê bình; ông vạch ra bản sắc thực của những sáng tác dân gian sơ khởi của nhân loại là những bà i thơ tình, vử sau được tập hợp và o những bộ kinh điển của các tôn giáo, chúng bị giải thích khác đi, bị thần thánh hóa, bị gán những hà m nghĩa phù hợp các giáo điửu; tuy thế, vẫn có thể chỉ ra được thuộc tính ban đầu của nó là những bà i thơ tình.
Là người tiếp nhận Hán học từ nhử, Phan Khôi biết rõ Kinh Thi. Phan Khôi cũng từng dà nh nhiửu năm để dịch Kinh Thánh của đạo Thiên Chúa. Bản chất tình thi ở một số tác phẩm được đưa và o kinh điển, dù của Nho giáo phương Đông hay Thiên Chúa giáo phương Tây, mà ông chỉ ra, đửu có căn cứ chắc chắn, không phải những ấn tượng thoáng qua.
Xin giới thiệu với bạn đọc bà i Thơ tình trong kinh điển của Phan Khôi đã đăng trên Hà Nội báo ngà y 20/5/1936 (trang 2-4):
Văn học của một thứ tiếng nà o cũng vậy, bắt đầu phát sinh ra bằng vận văn, mà trong những bà i vận văn ấy thường lấy ái tình là m tà i liệu. Ấy tức là thơ tình, cũng gọi là tình thi. Trong đám sơ dân, trai gái yêu nhau rồi đem sự yêu nhau ấy ra mà ca vịnh nên lời, hoặc để gửi sự nhớ nhung, hoặc để tử niửm khăng khít.
Mở đầu Kinh Thi là một bà i thơ tình
Vả, trai gái yêu nhau là bởi tính tự nhiên. ài tình, theo đúng bản chất của nó mà nói, là một vật cao thượng và thanh khiết. Thế thì những tác phẩm lấy nó là m tà i liệu, vử mặt nghệ thuật, khéo vụng thế nà o chưa nói, chứ vử mặt đạo đức, chẳng có gì là đáng chê. Cho nên đời xưa, những dân tộc nà o đã góp tác phẩm của mình lại là m ra sách kinh điển là thứ sách coi như khuôn phép cho đời nà y sang đời khác, cũng đửu đem ít nhiửu thơ tình mà để và o trong đó.
Kinh Thi của người Trung Hoa và Cựu Ước của dân Hê-bơ-rơ cũng đửu vậy cả.
Trong Kinh Thi, nhất là vử sách Quốc Phong, có rất nhiửu thơ tình. Mà chẳng những thơ tình, rất đỗi có những bà i như bà i Tang Trung, người ta đã gọi ngay nó là thơ dâm bôn nữa kia.
Thơ tình cho đến thơ dâm bôn đã được để và o Kinh Thi, sự đó người đời xưa coi là sự đương nhiên, không có ái ngại gì cả.
Nhưng vử sau cái quan niệm vử đạo đức của người đời mỗi ngà y một thay đổi, bởi bó mình trong lễ giáo thái quá nên người ta đã coi ái tình như là một sự phạm tội và tình thi như là một thứ tác phẩm bất chính. Vì đó, bọn hậu Nho mới tìm cách để giải thích cho những bà i thơ tình trong Kinh Thi thà nh ra không còn phải là thơ tình.
Kinh Thi mở đầu ra là sách Quốc Phong, sách Quốc Phong mở đầu ra là thiên Châu Nam, thiên Châu Nam mở đầu ra là bà i Quan Thư, và bà i Quan Thư là một bà i tình thi. Thế là ông Thánh đời xưa dọn bộ Kinh Thi mà mở đầu ra đã cho chúng ta đọc một bà i thơ tình, chẳng có khem cữ chút nà o hết. Ấy vậy mà khi nó bị trải qua dưới cặp mắt có mang kính mà u của hậu Nho, nó phải biến hình đi, thà nh ra một nghĩa khác.
Quan quan thư cưu Tại hà chi châu Yểu điệu thục nữ Quân tử hảo cầu (Quan quan chim thư cưu kêu/ Ở nơi doi sông hà / Dịu dà ng gái là nh/ Xứng đôi cùng người quân tử). |
Đó chẳng qua một người con trai một người con gái yêu nhau thì thốt ra như thế. Có tâng bốc nhau những là thục nữ, quân tử thì mới mạnh mẽ, mà hạ được cái ý dan díu nhau và gắn bó nhau.
Châu Nam là phần đất cai trị của vua Văn Vương nhà Châu. Hậu Nho tin vua Văn Vương là thánh, miửn ngà i cai trị phải có phong hóa tốt đẹp, chắc không có đâu sự trai gái ve nhau và do đó có những bà i hát hoa tình. Thế nhưng bà i thơ Quan Thư đã nghiễm nhiên đứng đầu Kinh Thi, không có thể nà o xóa bử đi được, họ chỉ có một cách là giải thích nó ra nghĩa khác.
Quân tử đó là vua Văn Vương, thục nữ đó là bà hậu phi, vợ ngà i; một đằng là thánh nhân, một đằng là trang khuê các, có đức u nhà n trinh tĩnh, hai đằng phối hợp cùng nhau, nhử đó mà gây nên cái công hiệu tử gia trị quốc, nên thi nhân mới là m bà i thơ nà y để khen. Đó là lời giải thích của các bậc hậu Nho, và lời giải thích thật là quanh co quá!
Nhưng cái bản sắc của bà i Quan Thư là một bà i thơ tình thì không vì lời giải thích ấy mà mất đi được. Vì cuối bà i ấy có những câu (dịch ra là ): So le rau hạnh/ Tả hữu thuận dòng theo đó/ Dịu dà ng gái là nh/ Thức ngủ tìm đó/ Tìm đó chẳng đặng/ Thức ngủ nhớ nhung/ Thảm thay! Thảm thay/ Trằn trọc tráo trở!
Những câu thơ tử ra cái tình ái luyến rất nồng nà n và nói ra một cách rất giản dị ấy không có thể hợp với cái thuyết đạo đức đứng đắn của hậu Nho được; nó đã là thơ tình thì bao giử nó cũng vẫn là thơ tình.
Cũng như sách Nhã Ca trong Kinh Thánh Cựu Ước vốn cũng là những bà i thơ tình, tả tình lại còn suồng sã xốc nổi hơn Quốc Phong nữa, thế mà cũng đã bị người ta thay đổi mặt mà y của nó.
Nhã Ca mở đầu có những câu:
Nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người, Vì ái tình chà ng ngon hơn rượu (*) |
Như thế còn ai chối được rằng thơ ấy không phải bởi sự trai gái âu yếm nhau mà ra?
Suồng sã xốc nổi như những câu:
Hãy lấy bánh nho uống đỡ lòng tôi, Dùng trái bình bát bổ sức tôi lại, Vì tôi có bịnh bởi ái tình, Tay tả người kê dưới đầu tôi, Còn tay hữu người ôm lấy tôi... |
Trong Kinh Thi có bà i tả cái đẹp của các chi thể người đà n bà như cái đầu, cái cổ, chân mà y, con mắt... thì Nhã Ca lại còn tả đủ hơn nữa, như đoạn nà y:
Chơn nà ng mang già y, xinh đẹp biết bao, Vế nà ng béo mướt, khác nà o như ngọc, Rốn nà ng giống như cái ly tròn, Bụng nà ng dường một đống lúa mạch, Hai vú nà ng như hai con sanh đôi của hoà ng dương, Cổ nà ng như một cái tháp ngà , Mắt nà ng khác nà o cái ao tại Hết-bôn, Mũi nà ng như ngọn tháp Li-ban ngó vử hướng Đa-mách, Đầu trên mình nà ng khác nà o núi Cạt-mên, Và tóc nà ng như sắc tía... |
Tả sắc đẹp của đà n bà mà tả đến những cái vú, cái rốn, cái đùi (vế) thì thật là bạo quá. Không ai ngử được rằng trong kinh điển của một tông giáo lại có được thứ văn chương như vậy. Thấy nói đương hồi thế kỷ thứ nhất có nhiửu dòng đạo nghiêm chính không chịu nhìn những sách Nhã Ca là Kinh Thánh. Nhưng vử sau, ai ai cũng nhìn nó cả, là vì nhử cách giải thích của các học giả bên đạo, nó trở nên có một nghĩa rất cao và rất hay.
Người ta nói những bà i thơ trong sách Nhã Ca đó là mượn sự yêu nhau giữa trai gái để ngợi khen sự quan hệ giữa Đức Chúa Trời với dân ngà i. Theo văn học, đó là một nghĩa vử tượng trưng chứ không phải là tả thực.
Sự giải thích quanh co ấy cũng giống như hậu Nho đối với Kinh Thi mà trên đây đã nói. Thực ra thì Nhã Ca có thể là một thứ sách vử văn học của quốc dân Hê-bơ-rơ đời Thượng cổ, trong đó chỉ nói vử sự trai gái yêu nhau cũng được, chứ không dính dấp gì với việc Đức Chúa Trời.
Ngà y nay nhử khoa học xương minh, trong xã hội nà o cũng thấy bớt sự đè ép nặng nử của tông giáo và đạo đức cổ; nên những thơ tình trong kinh điển mới được phục lại cái bản sắc của nó. Ngà y nay các nhà học giả tân tiến bên Trung Quốc và các nhà tông giáo khai thông ở khắp cả thế giới đửu chịu coi thơ Quan Thư và thơ Nhã Ca là những bà i thơ tình.
(*) Những câu thơ ở Nhã Ca trên đây theo bản dịch Kinh Thánh của Hội Tin Là nh và theo cả bản chữ Nho nữa (nguyên chú của P.K)